Get Adobe Flash player

Lời giảng : Tỳ Kheo THÍCH MINH ĐỨC.

Biên soạn : Cư Sĩ Phật tử NHƯ THÁNH.

LỜI ĐẦU SÁCH

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Kính thưa quí đọc giả !

Nhân duyên là căn bản của người tu học Phật, nên trong tất cả chúng ta hiện giờ nếu đã hướng tâm nghĩ nhớ đến Đức Phật, quyết lòng học Phật là đã có nhân duyên với Phật từ nhiều đời nhiều kiếp. Tổ dạy “Sanh tử là sự đại” nên khi bước vào tìm học chơn lý nương vào Pháp tu ta nên tư duy tìm học cho thật kỹ, nghiên cứu kinh điển hiểu biết rõ ràng con đường nào dẫn ta đến sự giải thoát chơn chánh của tâm, phương pháp nào giúp ta phát sinh trí tuệ giác ngộ sáng suốt. Đức Phật ngày xưa cũng từ sự sáng suốt và thấy biết pháp bằng trí tuệ, bằng cách làm chủ tâm ý, tự buông xả thanh lọc thân tâm, không nương tựa vào quyền lực hay sức mạnh nào, không cầu xin van lạy vào sự ban bố, ban ân mà tự dùng năng lực chính nơi mình là trí giác quyết định chiến thắng mọi dục vọng ham muốn, xa lìa ngũ dục lục trần, thấy lại chơn tâm, sống với chánh niệm, kiến tánh thành Phật, thoát luân hồi, ra khỏi vòng đau khổ mê si của cuộc đời, ra khỏi mọi cám dỗ ràng buộc gọi là giác ngộ giải thoát. Phải biết nguyên nhân nào là chướng nạn của sự tu hành, những gì là tham mê sa đọa đau khổ, phương pháp nào giúp tâm trong sạch, an ổn đó là điều rất cần cho người có chí tu hành. Ngày xưa thời Đức Phật có 96 mối đạo tu không đúng chơn lý giải thoát trong đời nên Đức Phật thị hiện để giáo dạy chuyển đổi. Thời nay vẫn còn tồn tại, nên khi phát tâm tu ta cần xét kỹ Phật đi con đường nào, con đường nào của ngoại đạo để ta không bị lầm lạc mà uổng phí một đời tu học. Vì được thân người rất khó, nghe và hiểu Phật Pháp càng khó, thực hành tu chơn chánh trực chỉ vào tâm là điều khó nhất trong đời nên ta cần thận trọng chọn lựa để không rơi vào tà tri, tà kiến, bước đầu là chánh kiến chánh ngữ, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh định, chánh niệm và chánh huệ.
CLICK ĐỌC TIẾP...

Kinh thưa quí vị !

Quyển sách này được viết lại sau khi Sư phụ thuyết giảng cho khóa tu Thiền Thất “Thiền chánh niệm” tại Thiền Viện Minh Đức vì nhận thấy bài thuyết giảng này sẽ đem lợi ích chung đến cho người tu Thiền nên dù người biên soạn trình độ học vấn ít oi, nhưng tấm lòng trọng Phật kính pháp dù sức tu còn hạn hẹp cũng nguyện đem năng lực nơi trí tuệ viết lại lời giảng từ Sư phụ xin cúng dường đến tất cả huynh đệ cùng thiện tri thức gần xa có đủ duyên tâm đồng ý hiệp cùng là pháp lữ đồng tu sớm trở về tánh giác, nương theo hạnh từ bi của Đức Thế Tôn mà trên 2550 năm còn lưu lại. Những điều còn sai sót kính mong nhờ chư Tôn Đức từ bi chỉ dạy vì Phật pháp vô lượng, vô biên, vô cùng tận, không đủ sức diễn tả hết, nơi đây chỉ là sự góp nhặt một phần nhỏ vào biển pháp bao la vô tận./.

NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT.

NAM MÔ CHỨNG MINH SƯ BỒ TÁT
MA HA TÁT.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Cư sĩ Phật tử Như Thánh

Tìm học giáo lý của Đức Phật là tìm lại sự thật về con người và vũ trụ gọi là nhân sinh quan và vũ trụ quan, chơn lý là sự thật con người và vũ trụ.

Con người có hình tướng bên ngoài và sự vô hình của tâm thường biến chuyển hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, từng sát na, trải qua nhiều trạng thái, nếu không thiền quán ta không thể nhận biết được điều này hằng diễn biến tại con người, nó đã bị quên lãng vì ngũ dục, lục trần thường sinh hoạt, vì đắm nhiễm.

Nếu tìm sự thật của vũ trụ theo thế gian là bay lên sao hỏa, sao thổ, sao mai hay lên cung trăng v.v… đây không phải là vũ trụ như Đức Phật nói. Vũ trụ của Đức Phật là cõi của dục giới, sắc giới, vô sắc giới và thế giới của chư Phật rất thù thắng vì đã vượt qua Tam giới.

Chúng ta tu là tìm sự thật về các thế giới trong vũ trụ.

Đức Phật đã chứng ngộ được vũ trụ và thế giới con người.

Người tu không tự giải thoát vì không theo đúng chơn lý Phật, không thực hành đúng, không sống đúng như Phật, không sống được với chơn lý, tinh thần không hòa nhập với vũ trụ vì thường bị dính kẹt vào pháp môn, vào thói quen cuộc đời, theo tập tục, tập quán, nghi thức phong tục vì bảo thủ chấp vào các pháp chấp Giới cấm thủ vì không biết tất cả pháp đều là phương tiện đối đãi nơi con người chỉ tạm sử dụng tùy theo tâm lượng, tùy vào tâm ham muốn hay buông xả mà sinh pháp.

Nếu cho pháp Thiền là của tôi, tôi tu Mật, tu Tịnh độ hay bất cứ pháp môn nào cho là của tôi đều bị dính kẹt vào pháp, tất cả pháp môn đều là phương tiện là pháp. Các pháp vốn như huyễn, được con người sử dụng để tu học là giúp tâm buông xả các niệm nên ta không niệm vào pháp nào chỉ tạm sử dụng ta đừng kẹt vào pháp môn thành chấp thủ pháp.

Thói quen hằng huân tập là tập khí của cuộc đời, không bỏ được tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, tà kiến, thân kiến, biên kiến, kiến thủ … là còn thập ác. Nếu tu bất cứ pháp môn nào xét thấy còn tư tưởng chấp thủ tự sắp đặt cho mình đó là đã sai từ căn bản đầu tiên, sẽ lạc theo cách tu ngoại đạo.

Người cư sĩ căn bản ban đầu là thọ Tam quy, giữ Ngũ giới, đây là căn bản bước đầu học Phật. Gìn giữ Ngũ giới, nếu muốn không vướng mắc luân hồi thì phải tuyệt đối không dâm dục, do dục vọng thói quen lâu đời không xả bỏ được nên vẫn còn vướng kẹt thì không thể giải thoát khỏi lục đạo, phải giải thoát các pháp thế gian khi khởi tu.

Thiền, Tịnh, Mật là pháp tu được sử dụng, nếu không sáng suốt, mãi ôm chấp pháp đều bị kẹt pháp, vì pháp không phải là cứu cánh, cứ tư tưởng mãi cho là thật nên kẹt vào pháp. Theo Tổ Huệ Năng nói về pháp không thật, Ngài nói rằng “Sống thì tọa thiền, chết làm sao tọa?”. Theo Tổ thì không phải Thiền không phải Tịnh, không phải Mật, tất cả pháp như ngón tay chỉ trăng. Pháp dùng chỉ cho ta thấy được tâm hiện hành đang khởi là tâm gì, biết được sự vận hành của tâm đang niệm vào quốc độ nào của mười phương thế giới, để người tu tự chuyển hóa cách sống mà an lạc hay còn đọa lạc. Tu là giải thoát thực tại đừng chấp vào vọng kiến, tà kiến làm sai lầm, mục đích là làm bừng sáng mắt trí huệ vốn là rỗng không, không bị ngăn che bởi tập khí phiền não vô minh vì chấp thật. Chánh niệm là tâm không vướng trụ vào pháp điên đảo thế gian, nếu không biết điều này sẽ ở mãi trong lục đạo không giải thoát được.

Cõi dục giới là chấp vào sự ưa thích, muốn ham gọi là dục, phải phá bỏ những tập quán mê lầm của cuộc đời, không sống dựa vào thói quen, nên Lục Tổ nói với Ngài Huệ Minh : “Hãy lìa thiện lìa ác, đó chính là bổn lai diện mục”. Thói quen con người là hay làm thiện làm ác, hãy buông bỏ những thói quen.

Người tu chánh niệm thường sống bằng trí huệ, thường giác với tâm hiện hành tùy pháp mà ứng xử. Phần đông được học giáo lý từ đức Phật, rồi chấp giáo lý. Phải biết giáo lý là phương tiện cơ bản để áp dụng, để giải quyết mọi hoàn cảnh chung quanh, không cho là Phật nói, Tổ nói thế này, thế nọ, thế kia vì y kinh thuyết pháp Tam Thế Phật Oan. Trong lời kinh, Phật thường mượn sự tướng để chỉ cho chúng sanh ngộ tánh tức là tri kiến Phật (giác) chính tại tâm mình. Lời Phật dạy là lìa các tướng mới là chơn thật tướng vì Niết Bàn diệu tâm vô tướng nhưng thật tướng. Nếu ta lợi dụng pháp Phật để phục vụ cho tự ngã, cho lợi ích riêng tư, phục vụ cho tâm dục vọng muốn ham, cứ đổ thừa là Phật nói là phỉ báng Phật, vu oan Phật. Phật không có ngã kiến sai lầm mà đổ cho là Phật nói, quyết định tà kiến này làm mê mờ chúng sanh, khó lời biện bạch, phải sáng tỏ vấn đề này tự mà giải thoát, nếu càng bày biện càng kẹt vào tà kiến.

Con người bị dính kẹt vào bảo thủ là thường đem pháp môn ra kiến giải mà không chịu thực hành nên mãi trụ vào pháp môn không thoát ra sự chấp trụ pháp được.

Tu không đặt nặng vào lý thuyết, Phật dạy vô ngã, vô chấp, không chấp vào pháp nào. Tự tánh thường bị che mờ bởi chấp vào pháp, làm ngăn ngại trí tuệ. Bổn lai con người ai cũng có tự tánh sáng suốt, nếu được mở mắt trí tuệ sẽ thấy rõ đâu là sự thật con người, đâu là thế giới quan, chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền đó là thường sống với sự thật thấy bằng trí tuệ.

Chúng sinh sống với bản ngã huyễn hóa, vọng tưởng điên đảo tà kiến nên mê muội.

Người hướng dẫn bất cứ pháp môn nào, như Thiền, Tịnh, Mật đều phải chứng ngộ tự tánh. Nếu chưa chứng ngộ tự tánh, mãi đuổi theo chấp vào kinh sách Thiền ngữ, cứ theo kinh điển mà tri tìm là mãi tìm pháp đã qua, phải dùng sự tu chứng tại bản tâm, chơn tánh tự giác mà khai ngộ cho người. Phật cũng chứng ngộ bản tánh, dùng kinh nghiệm biết sự chuyển biến nơi nội tâm mà dạy cho chúng sanh. Người tu nên coi lại sự chứng ngộ bản tâm mình có giống sự chứng ngộ của Phật mới là tu học theo chơn lý giải thoát.

Pháp tu minh sát tuệ giúp ta có sự nhìn như thật thấy được chân tướng của vũ trụ, không bị thành kiến, kiến chấp làm lu mờ bởi những niệm phân biệt, sống bằng tâm hiện tại không vướng mắc bởi dục niệm. Tâm từ ái rất bao la thoải mái, phải có sức nhẫn trí tuệ, không vướng vào tư tưởng của bản ngã một cá nhân hay tập thể nào vì chơn lý là giải thoát.

Tam ma đề có ba pháp tu là

: Tu chỉ, Tu tịnh,
Tu quán.

Tu quán để sanh trí tuệ ( trí huệ quán ). Người không tu quán thì không sanh trí huệ. Tu giới thành tựu thì tâm định vì giới năng sanh định, định năng sanh huệ. Giới thành tựu là sáng suốt không vướng kẹt, người không có giới chỉ làm chướng ngại người khác. Không giới thì tà định sẽ xuất sinh, mà tà định sẽ là tà mạng, tà nghiệp, tà tư duy rớt vào bát nạn. Người tu chánh niệm tuyệt đối giữ giới thứ ba là tuyệt dâm vì đó là nguồn gốc của sanh tử luân hồi. Dù tu Phật bao nhiêu năm, danh vị có to lớn thế nào mà còn phạm vào giới thứ ba là vẫn còn nuôi dưỡng con đường vào lục đạo, giới này là cơ bản của sự giải thoát.

Sự công phu là im lặng tuyệt đối, khác với niệm Phật để giữ chánh niệm từ thân đến tâm, thế giới chư Phật là tịch lặng mà chiếu soi vi diệu.

Thiền quán là phương pháp tu thấy được tâm mình, phải thấy các pháp lăng xăng thế nào, vọng tưởng như thế nào, phải thấy vọng kiến sai lầm của tham sân si. Ngài Thần Quang xưa thường ở trong sự chém giết sát hại, khi gặp Tổ Đạt Ma khuyên bỏ hận thù sẽ thấy được từ bi trí tuệ, sự hiểu biết sẽ có được từ bi trí huệ, hiểu biết chơn chánh không có được từ lý luận, không dùng kinh sách luận giải mà phải thật chứng, thật tu xét kỹ những gì từ vô minh còn cản trở, ngăn ngại não loạn tại tâm, phải thấy được sự thật tại tâm hằng biến chuyển, không bàn luận đấu tranh phê bình việc của Phật của Tổ chỉ vô ích, tu là giải thoát giác ngộ chính ta, không phải tu cho Phật, cho Tổ, bỏ tất cả pháp còn vướng bận nơi tâm từ xưa nay. Phật dạy đường này ta đi hướng khác, phải thật đúng vào cách tu tâm kiến tánh thành Phật, phải thấy được sự rỗng rang sáng suốt trí tuệ chính ta. Cúng dường, bố thí, trai tăng v.v… chỉ là pháp đối đãi ta không chấp vướng vào tâm, đó là phước nhân gian, còn chấp vào pháp thế gian dù là phước cũng còn vướng bận giống như hạt bụi nhỏ cũng không dính vào mắt, tất cả pháp đều có phương hướng riêng. Nếu ai sử dụng pháp sân thì phải vào địa ngục, pháp si là cõi súc sanh, pháp tham thì vào cõi của ngạ quỷ, Thanh Văn vào thế giới Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều có thế giới, mỗi mỗi phát sinh từ ý niệm mà có danh từ biến hiện ra các tướng.

Công phu thiền chánh niệm để thấy rõ chơn tâm, tự tánh, thấy rõ sự thật. Trí huệ không là phi tưởng mơ hồ mà là sáng suốt, không cấm sự nghĩ tưởng tư duy, mà phải biết rõ sự nghĩ tưởng đang là pháp gì ? Hiện đang ở cõi nào? Trong mười phương thế giới từ Trời hữu đảnh đến Địa ngục, phải biết Ngũ uẩn giai không, không chấp là không ngơ, không có pháp hiện diện. Ta đang mang thân ngũ uẩn không trụ yên nhất định hình tướng hay trạng thái nào cả mà Ngũ uẩn hiện đang thay đổi từng sát na gọi là vô thường. Có thân phải theo luật biến đổi tùy duyên của vũ trụ, pháp có sanh thì có già, có bệnh rồi có chết là thành trụ hoại không. Các pháp vốn hợp tan, tùy theo duyên mà có không, không có, chi phối luân chuyển đổi thay, không chắc thật vào một trạng thái hay hình tướng nhất định nào cả.

Tự giác trong chánh tư tưởng, chánh huệ, chánh mạng, chánh định, chánh tư duy sống theo bát chánh đạo là tư duy sâu vào sự tu hành, thường sống hạnh Thánh Thiện giác ngộ không chấp trụ vào pháp. Thiền là phương tiện công phu dẫn vào chứng ngộ, thiền thường nhắc nhở công phu không gián đoạn.

Bắt đầu khởi tu phải quy y Tam Bảo, là trở về nương tựa Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng ( giác, chính, tịnh ). Quy y Phật là nhìn nhận biết rõ trở lại tâm ta, ai cũng đều có hạt giống giải thoát, tỉnh thức, trở về với tự tánh sáng suốt trí huệ là chơn thật quy y. Nguyện quy y Phật là tự trở về với sự giải thoát. Lễ quy y bên ngoài chỉ là nghi thức, hình thức quy y, ta phải trở về đức tánh cao thượng như Đức Phật, phá bỏ tất cả thành kiến chấp trụ vào thế gian mãi cho là thật. Quy y là nương tựa vào Tánh đức từ bi, thương yêu, giúp đỡ, làm lợi ích muôn loài, nuôi lớn trí tuệ, nuôi đức từ bi càng thêm cao thượng là chơn chánh quy y ( quy y tánh giác ).

Quy y pháp trở về nương tựa sống trong giáo pháp của đức Phật, sống đúng chơn lý giải thoát mọi vật. Rõ biết giáo lý của Phật để soi sáng các pháp thế gian, ứng dụng vào mọi lúc tùy hoàn cảnh sáng suốt theo chơn lý, không chấp trụ bởi tà kiến cứng chắc thế gian do niệm riêng tư, các pháp đều có chơn lý mọi hành động đều lợi ích. Chúng sanh luôn sống với sự thật để giáo pháp hiển hiện tại tâm mình, tất cả đều từ nhân quả mà có, đều có định luật biết rõ hoàn cảnh vũ trụ quan. Thật tướng vũ trụ quan phải tùy duyên mà sống, các pháp đến đều nhẹ nhàng, không não loạn, không tự ý, không tà kiến, kiến thủ đó là cơ bản cần phải hiểu, lúc nào chơn lý cũng hiển lộ tại tâm là sự thật không theo vọng kiến.

Quy y Tăng là trở về nương tựa Tăng, nương dựa tinh thần với những người cùng chí hướng đồng hòa hợp, tu học, không chống trái thường giúp đỡ nhau, dựa vào tinh thần đồng vật chất chung chí nguyện dìu dẫn nhau vào con đường tỉnh thức, đồng hòa đó là Tăng. Nếu mãi chạy theo vọng kiến, tà kiến là quên quy y Phật, quên quy y Pháp, bỏ quy y Tăng. Phải thường xuyên suốt dụng pháp Tam quy, hằng quán tự tại nơi tánh ta có giải thoát các tà pháp hay còn vướng kẹt, phải xuất ra khỏi dục giới gia, sắc giới gia, vô sắc giới gia, phiền não gia, không còn bận bịu nữa, nếu còn tham đắm tiền tài danh lợi thì không giải thoát được. Gìn giữ giới luật thật trong sạch nơi thân khẩu ý, vì thường tạo nghiệp tham sân si đầy tội lỗi, thân ngữ ý phải giữ không nhơ bợn, độc ác. Nếu đã tu mà cứ ở mãi trong pháp này là càng nuôi dưỡng nghiệp u mê ngày càng thêm lớn, nghiệp mê làm ô nhiễm che phủ tự tánh, chịu tăm tối. Không giết hại bất cứ sanh mạng nào, không vì buồn giận tức, tham mà giết người giết vật, phải diệt trừ tâm sát, thường sống với tâm định tự nhiên, không áp lực. Tâm định không tham, không trộm cắp, không lấy bất cứ gì không phải là của mình, phải giữ miệng trong sạch, không nói dối bằng những gì không biết chắc, bàn bạc nói nhiều, nói lời độc ác, không dùng trà rượu, nói lời không chân thật, giữ được những điều này sẽ thường sanh trí huệ, không tham muốn đòi hỏi vào thế gian thì tâm sẽ an định (tâm vắng lặng các niệm).

Cõi dục giới là cõi tâm chao đảo bởi những lượng sóng trần ai nên thường mất định lực. Định lực là chơn lý ngay chỗ tâm hoan hỷ chấp nhận, bằng lòng trước các pháp, dù khổ vui vẫn sẵn sàng không từ chối hay khiếp sợ, lúc nào tâm cũng là niềm vui an lạc, lúc nào cũng xả bỏ sự bực bội, khổ đau, tâm niệm là sự bình an bất động trước các pháp. Quán sát vào tâm thấy xả bỏ được sai lầm của thói quen là hạnh phúc của người tu. Nếu tâm còn sai phạm tự sám hối thấy lòng vô cùng buồn vì các niệm khởi không chơn chánh, phải kiên nhẫn giữ tâm luôn quân bình.

Cuộc đời đầy phức tạp, Phật nói “Tam cõi như hỏa trạch”, dục giới, sắc giới vô sắc giới như lửa cháy phải kiên nhẫn mới vượt lên được. Người tu phải có sức chịu đựng tối đa, khổ đau đói lạnh đều chịu được, phải sáng suốt trí tuệ biết chết sống là không thật vì sống rồi sẽ chết, chết sẽ sống đó là sự biến đổi vô thường không thật, nếu mãi tham sống sợ chết tuy làm người mà đánh mất chơn lý càng đau khổ. Người chịu được khó khăn, kiên nhẫn là thần tượng, trụ cột, được mọi người tôn trọng vì có nhiều đức nhẫn phải đầy đủ năng lực. Đức nhẫn là Thầy của thế gian, tâm nhẫn kiên cố thì chơn như thanh tịnh sẽ hiển bày giữa thế gian. Muốn chơn như thể hiện phải dẹp hết những niệm thế gian vì vô minh che mờ bởi ngũ ấm thập kiết sử đè kín là những nguyên nhân phá hoại đời tu. Bổn tánh chơn như hằng chứa trí tuệ sáng suốt tâm minh, mọi việc, mọi hoàn cảnh cuộc đời đều bỏ qua nhưng hoàn toàn biết tất cả, phải kiên trì dũng mãnh chịu đựng, vượt lên sự khổ khó bằng tâm chấp nhận, không lùi, không đau khổ đối trước các pháp thì công phu mới được an ổn trong chánh niệm.

Tu thiền phải hiểu biết chơn lý, thắm nhuần giáo lý mới sanh trí tuệ. Nếu thiền mà không trí tuệ, không chơn lý là thiền vô ký, thiền mê muội. Không chấp vào pháp môn mà phải sống cùng chơn lý, nên Lục Tổ đả phá các pháp môn mà chỉ nói Minh Tâm Kiến Tánh. Nếu ai thấy được bản tánh Chơn như, sống được với bản tánh tự nhiên người đó là Phật. Cứ chấp vào pháp môn cho đó là của tôi là còn niệm phân biệt, nếu còn cố chấp sẽ ngăn che sự sáng suốt. Ta không bỏ qua thời gian tu tập nào, không để gián đoạn, phải thường sống bằng tâm trầm tỉnh, sáng suốt, chơn như, thật thoải mái tự nhiên, không bàn chuyện thế gian, quán sát những gì thường hay xảy ra nơi tâm, thường biết thật chính chắn, thấy tâm thường chuyển mà tự giác hằng kiểm tâm, thường im lặng để bảo tồn năng lực, bảo vệ sự tỉnh thức, trầm lặng từ lời nói là sự yên lặng trong tâm hồn. Đặt hết trọng tâm vào sự tu học, không quan trọng việc bên ngoài, dục lạc cần hạn chế tối đa, tạo riêng mình sự đơn độc tại tâm, tự quán xét cứu lấy tâm, khi bỏ thân tứ đại ta chỉ đi trong đơn độc một mình nên phải tập sống đơn độc ngay từ lúc này, phải thoải mái thanh tịnh trong đơn độc, tâm thiện lành sáng suốt bình an, vắng lặng tất cả các pháp thế gian, hãy tạm bỏ qua những quan hệ chung quanh, dùng thời gian tự chiêm nghiệm lấy, tâm tập dần cách sống vững chãi và an lạc.

Tu thiền biết được chơn lý thì trí tuệ sẽ hiển lộ, không chỉ ngồi bằng hình thức mà tâm vẫn giao du với tà niệm, tà tưởng, không sáng suốt thấy các pháp xuất hiện do tâm niệm hiện hành là Thiền mê, phải giữ vững chơn lý thắm đượm vào tự tánh, phải minh tâm kiến tánh thấy rõ sự biến chuyển hoạt động từng tâm thức. Nếu tư tưởng, lời nói trầm lặng sẽ có sự trầm lặng của tâm hồn, sự giao tiếp chung quanh cần giới hạn, không gián đoạn sự tu học, tập hạnh độc cư thường quán xét tại tâm, nhận rõ các pháp tướng hiện đang sanh diệt.

Giác ngộ có sự đồng cảm, cảm thông đầy lòng từ bi, vì khi giác ngộ đã nhập vào tự tánh sáng suốt, nhìn thấu suốt chơn lý bằng mắt trí huệ, thấy chúng sinh trùng trùng đau khổ nên hết lòng cứu giúp hầu thoát khỏi sự khổ thế gian. Đức Phật Thích Ca ngày xưa vì thấy sự đau khổ của thế gian nên quyết lòng ra đi tu hành chứng ngộ để trở lại thế gian độ tất cả mọi người trong Hoàng tộc cùng những ai có duyên với Ngài.

Khi nhất tâm ứng dụng pháp tu chánh niệm, phải buông xả các pháp dù pháp môn nào cũng không còn chứa ở nơi tâm, phải hết sức tập trung không dùng cách pha trộn pháp, phải loại bỏ các thói quen. Tu chánh niệm thì trí huệ phát sanh, vậy chánh niệm là gì ? Là chánh tri kiến, hằng ngày ta sống với tư tưởng niệm niệm liên tục luôn dày xéo tâm ta, phải thấy rõ các niệm các tư tưởng mà rà sát, minh sát rõ ràng, phát hiện niệm khởi tự chủ được tâm niệm sống theo chơn lý là đã Tri kiến Phật. Nếu niệm tưởng sinh khởi không minh sát kịp sẽ dẫn ta vào lục đạo luân hồi gọi là sa đọa, phải sáng suốt nhận xét, thường tu sửa các niệm tưởng cho thật chơn chánh.

Người tọa thiền lưng thẳng đứng, nếu gục là mất chánh niệm, ngã đầu là mất chánh niệm, nghiên mình là lập tức chỉnh sửa, tự điều thân trang nghiêm là giữ được chánh niệm. Nếu kéo dài chánh niệm sẽ tự nhiên định, xét lại tại sao định thì liền có huệ sanh ( biết xét là huệ ) gọi là thấm thấu. Phải tự điều chỉnh tâm, điều chỉnh niệm tưởng bằng chánh niệm, biết rõ tôi đang hít vô, biết rõ tôi đang thở ra, biết rõ tôi đang niệm nhớ, nghĩ gì ? Đó là đang tập quán hơi thở, mượn hơi thở làm phương tiện mà tu tập. Nếu mở mắt tập trung vào điểm nào thì từ từ phải quên điểm tập trung, tự ta thầm nói với ta, biết cách kiểm tra tư tưởng là phát hiện cột trói các vọng tâm hầu có cơ hội nhập vào tự tánh. Ngồi phải thấy rõ mọi tư tưởng, mọi suy nghĩ, phải thấy thực tế, không tu theo sự trừu tượng, không để tâm long bong chạy ra ngoài sẽ mất chánh niệm. Vạn sự đều khởi đầu nan, bắt đầu vào việc gì cũng khó, tu thiền lại còn khó hơn, vì huân tập pháp thế gian từ vô lượng kiếp gọi là nặng nghiệp, muốn buông xả không phải là điều dễ. Vì vậy người tu hành phải thật đi vào thực tế, pháp hành này là của Bồ tát như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ. Bố thí của bậc Bồ tát là ngồi tập trung buông xả bỏ hết lòng tham, bỏ hết các niệm nghĩ nhớ toan tính việc đời, luôn giữ gìn chánh niệm, nên đã có lòng từ ái có sự kiên trì nhẫn nhục. Từ xưa nay vì vô minh ta không từ bỏ một niệm nào, luôn niệm tham tài, tham danh, tham lợi, tham sắc, cơ hội tu là xả triệt để lòng tham, phải tự xét tâm dò xét coi đối tượng nào còn sự phản ảnh, bực bội, không bằng lòng đó là những đối tượng còn phản kháng lại sự tu. Ta phải thấy từng tâm niệm, kiểm soát không để các niệm bong lung nhiễm thế tục là các sự ham muốn, đòi hỏi, giận hờn thù oán, tức tối, đó là tạp tâm, tạp niệm, tu là trở lại chơn tâm thường trú. Chúng sinh vì không làm chủ được các tâm niệm nên thường bị các tâm niệm đòi hỏi, càng đòi hỏi thì đau khổ cận kề, phải quán xét thấy được mà làm chủ nó, không để xuất hiện sự đòi hỏi, phải tập trung vào tự tâm mà minh sát, kiểm tra tâm niệm. Phật dạy rằng “Ngoài trận chiến có thể thắng được giặc, nhưng thắng được tâm ý là việc khó vô cùng”, chỉ có bậc Thánh nhân mới làm được, nên ngày xưa Đức Phật tu thiền quán thành đạo tại cây bồ đề là thắng được các niệm dục vọng tại tâm.

Thực hành tu thiền quán khởi đầu bằng cách xả tâm, buông bỏ các pháp thế gian, giống như ngày xưa Phật buông bỏ tất cả không dính bận việc gì. Thế mà lúc gần thành đạo những niệm quá khứ xưa cũ là ma chướng của dục vọng bỗng khởi lên gọi là ấm ma Ngài phải tu ngay tự tánh, quy y ngay tự tánh Phật chính của người quy y, phải sáng suốt nhớ lại rằng từ lâu nay vì mê lầm mà bỏ quên tự tánh chạy theo quy y với ngũ dục, biết được điều này là căn bản tự quy y Phật. Niệm Phật cũng là niệm nhớ trở về tánh Phật tại tâm ta mà tự quy y tự tánh Phật, phải trở về tự tánh làm chủ được tâm, không để các tạp niệm bên ngoài lăng xăng làm chủ tâm, đó là đã bị ma làm chủ, nó chỉ là khách trần, ta cần nên chú ý điều này.

Tâm tịch lặng mà thâm sâu vi diệu, nếu bày biện nhiều pháp ồn ào bên ngoài thì không nói là thâm sâu được. Nên giữ tuyệt đối, đối tượng mà quán chiếu các vọng tâm, giữ một niệm chơn chánh không chạy theo vọng trần và mọi tư tưởng điên đảo nên chủ định chắc chắn biết đó là niệm sai phạm. Người không làm chủ lục căn sẽ đau khổ, nếu sáu căn tịch lặng thẩm sâu thanh tịnh, thấy biết hết thảy pháp không mê lầm gọi là diệu quan sát trí. Phải dò xét khắp mọi nơi không còn vướng mắc, sự nhẫn nhục kiên cố là chơn lý, phải nghiêm nhặt theo từng hơi thở, kiểm soát từng bước đi, chân trái bước biết đang bước, chân phải bước biết đang bước, biết rõ đang nghĩ gì, quay vào tâm sẽ thấy từng tâm niệm rất rõ ràng, thấy những niệm hiện đang hoang mang nghĩ tưởng, nhớ hết việc này đến việc khác, không pháp môn nào thù thắng và lợi ích bằng pháp tu trở về chơn tâm, tự tánh là pháp cúng dường Tam Bảo đền ơn chư Phật, báo hiếu Phụ Mẫu ân. Chánh niệm là giữ một niệm chơn chánh, không chạy theo tạp niệm, không có tâm lăng xăng. Nếu chuyên chú giữ thân ngay thẳng, chuyên nhất vào hơi thở sẽ không theo tạp niệm nào cả đó là chánh niệm. Phật cũng từ nơi này sanh ra pháp, Tăng cũng nơi này mà sanh, vạn vật thế giới cũng từ niệm sanh pháp thường sanh sanh diệt diệt. Lục Tổ dạy : “Không ngờ trong tâm chứa muôn pháp” phải biết rõ điều này. Ngồi thiền thân đảo tới đảo lui là mất chánh niệm vì tâm đang ở trạng thái ồn ào lăng xăng, nếu giữ được thân thẳng đứng là giữ được chánh niệm. Khi phát huệ lưng tự thẳng đứng, phải dùng hơi thở làm chủ lực, tư tưởng là mầm mống luôn sẵn sàng sắp xếp thỏa thuận trước khi khởi niệm. Tà niệm là ma luôn cám dỗ ta sa đọa vào tham dục, nếu thất bại phải tu lại từ đầu, có khi ngồi trong trạng thái thoải mái, có khi cũng có trạng thái bực bội, cần phải kiểm tra lục căn xuyên suốt, khi bị chửi mắng thóa mạ phải biết chơn lý ở đâu đó là pháp nhẫn nhục tinh tấn thiền định.

Khi dỡ chân kinh hành bước đạp thật giản dị, chia thành ba động tác dở, bước, đạp phải ý thức từng động tác thật rõ ràng những gì đang xảy ra theo hành động. Tại sao gọi là trí huệ ? Đừng nghĩ đọc kinh thuộc kinh nhiều là trí huệ, không đúng. Nếu khi sờ, đụng, chạm đều quan xét được các việc xảy ra trước mắt là có chánh niệm.

Cúng dường bố thí mà sanh tâm niệm cho là có phước đó vẫn còn tâm niệm của sự tham cầu. Khi tâm khởi cúng dường bố thí lập tức xét lại niệm đang khởi là niệm vào việc gì ? Chơn chánh hay bất chánh, không nên chấp vào hành động bố thí cúng dường cho là có phước. Hãy coi kỹ nơi tâm đang sử dụng niệm nào, phải thường thấy niệm khởi là phước hay tội hay niệm hiện tiền sáng suốt trí huệ hay đần độn ngu si. Nếu mất chơn lý thì không biết được các niệm khởi đang chạy theo ngũ dục. Nếu đang giận, đang ghét, đang buồn phiền, liền chạy theo các pháp đó sẽ có hành động của thân là đánh đập chửi rủa, hại người, bực bội vì không có chơn lý, không chánh niệm.

Lúc kinh hành phải đi thoải mái, thường kiểm tra hành động, tư tưởng bằng trí huệ vì đây là công phu của thiền minh sát tuệ phải hay biết rõ ràng mọi hành động từ niệm khởi mới gọi là tuệ, là trí.

Mê vọng vốn sẵn trong tiền kiếp nên không sợ, cứ khởi niệm liền biết, liền có tánh giác gọi là bậc giác ngộ, là sự tỉnh thức từng sát na, khi đối người đối vật đều tỉnh thức, tất cả sự tập trung vào mọi cử động, nếu thất niệm liền sửa chữa lần hồi sẽ quen dần. Nếu đang kiểm tra hơi thở mà khởi niệm là thất niệm, phải quay lại hơi thở, làm lại từ đầu quen dần sẽ là kinh nghiệm tự dạy cho ta. Không theo ý kiến nhiều người phải làm chủ ý, đó là khớp vào thời gian, không gian, Phật nói là tự tại vô ngại, ta đã hòa nhịp vào vũ trụ mà không độc tài vì tự ý.

Tuệ vốn có từ tự tánh, thường quán sát hằng giờ hằng phút coi có đúng chơn lý không, luôn sống với niệm giác rất thù thắng. Ý Phật như thế nào thì ý ta như thế đó, Phật không có ý nên không có niệm đòi hỏi ham muốn. Chúng sanh vì có ý ham muốn nếu không được thì sanh tâm phiền não. Nếu sanh niệm khởi lên khổ đau ái dục không vượt lên là còn trầm mê chìm vào ái dục, là sa đọa rớt vào dục lạc thế gian. Muốn nổi lên phải có sức nhẫn kiên cố, điều gì ta làm được thực hành chứng ngộ rõ ràng mới đem dạy cho người khác. Nếu chưa làm được, chưa chứng ngộ mà dạy người là nói dối đã phạm giới, đạo Phật là như thật, không nói bằng ảo tưởng.

Tu là khắc phục chính mình là điều phục tâm ý thân, là việc khó thành công, phải hết sức kiên trì, đừng nản chí, đủ tánh đức kiên nhẫn nhất quyết làm được. Xưa nay tánh đức hoàn toàn viên mãn chỉ có chư Phật và chư Tổ. Ta tu tại nơi ta, không tu cho ai cả. Hiểu rằng khi khó khăn phải nên tự an ủi mình “chỉ một sự cực này sẽ thoát luân hồi sanh tử”, tâm còn đọa địa ngục rất khổ đau. Tâm khắc phục được bao nhiêu, buông xả được bao nhiêu, tự ta biết rất rõ. Có tâm niệm nghĩ rằng tu để cho mọi người biết ta tu là còn gian dối, có tự ngã, tự cho tôi tu phải làm đúng theo thế này hay thế nọ là sa đọa vào kiến chấp ; nếu hoàn cảnh không như ý ta thì sanh tâm bực bội, tức giận là ta đã tự đối xử ác chính ta, ta tự hại ta, tự làm cho ta đau khổ, tự tạo địa ngục tại tâm, tự dày vò cho tâm bức ngặt bởi phiền não chướng.

Tu chánh niệm là xả bỏ các vọng niệm điên đảo, tà niệm, tâm thức thường biến chuyển bởi vận hành sanh diệt không an ổn, có khi vì mê muội còn đem niệm của người khác tự đặt vào tâm ta đang đọa bởi suy nghĩ, phân biệt nên không chánh niệm được. Lúc nào cũng sống cùng với các niệm nhớ về tà ma ngoại đạo, mãi tu bên ngoài cho mọi người thấy, đối với bên ngoài lầm cho là anh hùng, nhưng đối với chính tâm ta là kẻ tiểu nhân rất nguy hiểm. Tu phải thấy lỗi lầm chính ta, không tu với ai cả, khi giác ngộ mới giáo hóa được chúng sinh, không thể dùng vọng tưởng, vọng tâm mà dạy ai được cả là sai giáo pháp Như Lai. Điều chưa thực hành, chưa chứng ngộ không đem nói cho ai, khi thực hành viên mãn sự thật mới đem ra khuyên dạy mọi người, đó là điều thiết thực.

Trở lại chánh niệm là điều nằm ngay trong lòng ta từ xưa nay, ngồi công phu là phục hồi lại nên nói là mới. Người công phu hay chạy theo vọng tưởng, vọng tâm, ít có người sáng suốt biết tu là hằng kiểm tra từng tâm niệm, sống được với chơn lý đó là việc làm mới có câu rằng : “biển cả không chứa tử thi”. Tử thi là những vọng niệm trôi nổi lênh đênh trong biển thức, là các niệm làm ô nhiễm tâm. Tự tánh vốn trong sạch, bao la không chứa các niệm vất vơ mà gọi là thanh tịnh, được hoàn toàn tịch nhiên sáng suốt, trùm khắp, ở mặt biển mà có tử thi sẽ tự dạt vào bờ hoặc cá ăn chớ không trôi nổi giữa biển. Nếu ta còn nuôi dưỡng sự đần độn ngu si tự sẽ trôi dạt ra ngoài, không vào tự tánh được nên không tồn tại. Sống trong chánh niệm là hành động của bậc Thánh nhân rất khó, nhưng chỉ khó lúc ban đầu, phải kiên định, nhẫn nhục. Buông bỏ pháp là bố thí tất cả niệm tinh tấn vượt qua, tâm sẽ định trong chánh niệm, sẽ phát sinh trí huệ đây là pháp tu lục độ Ba-la-mật. Việc của bậc Bồ tát không còn bận rộn bởi hoàn cảnh, không bám víu vào mọi sự ham muốn của cuộc đời, nếu còn lưu giữ không thể tu pháp lục độ được. Phải có tánh can đảm, không nản chí vì thất tình lục dục lôi cuốn bởi toan tính thay đổi pháp môn. Tất cả pháp đều là huyễn nhưng nếu biết dùng trí tuệ chuyển được pháp, không theo nghiệp thế gian thì đã chuyển được nghiệp mê thành giác. Nếu pháp được chuyển hóa thay đổi thì pháp mê thành Phật là pháp Phật, hay Phật pháp. Đức Phật nói rằng chỉ có đệ tử Phật khéo léo dùng tánh giác mà cắt đứt cuồng vọng vô minh hằng trói buộc.

Trên đường tu tập nếu vấp ngã phải mạnh dạn sửa lại từ đầu vì mỗi lần trượt ngã là một kinh nghiệm nuôi dưỡng cho sự thành công, phải xử lý kịp thời, tự tu sửa, khắc phục vượt lên đó là lòng can đảm trí tuệ, không gọi là đắc vì Phật Pháp vô lượng vô biên là vô sở đắc. Trí huệ là trùm khắp nên không nói thế nào là sử dụng đầy đủ, không có sở đắc, là con đường Thiên lộ giống như người leo núi rất khó khăn, phải cương quyết trì chí, vất vả nhưng sẽ có ngài tới đỉnh núi. Nếu tự thấy có lỗi lầm lập tức sửa chữa, sám hối là đã tha lỗi chính ta, sẽ tha thứ được lỗi của mọi người. Nếu có hoàn cảnh không như ý ta bắt đầu bực bội tức giận, hãy tập dần cách bỏ qua là sự thông cảm giữa ta và người đều được an lạc, tất cả được sẵn sàng bởi tâm vị tha từ bi hỷ xả. Tâm bình thản an lạc được sống bằng chơn lý, tất cả đều do tâm tạo, vạn pháp tự tâm sanh, lớn nhỏ phải trái đều thuộc vào tâm niệm của ta mà thôi, phải sẵn sàng xả bỏ mọi thành kiến thế gian, tâm sẽ tỏa ngát hương vị an lạc giải thoát. Công phu chánh niệm là bắt đầu hành trình vào thế giới của tâm phải ghi nhận rõ sự đặt biệt này. Đức Phật đã trực chỉ vào con đường này là bắt đầu leo lên đỉnh núi trí tuệ rất mệt nhọc, bắt đầu hành trình là vào con đường Bát Thánh Đạo, phải gặp rất nhiều công phu trong vất vả. Pháp này không còn là Thiền, Tịnh, Mật rất gian khổ khó khăn vì ta đang tìm sự tàng ẩn tại nơi ta, hãy vào con đường Bát Thánh Đạo là đường đưa ta đến giải thoát, giác ngộ. Bước đầu là chánh kiến, phải thấy được nhân quả của các pháp, nhìn thấy Tứ Diệu Đế còn gọi là Tứ Thánh Đế là sự thấy biết của bậc Thánh. Cần biết rõ nguyên nhân nào Thái Tử Sĩ Đạt Ta thành Phật, phương pháp nào mà Ngài thành Phật. Ngài đã rời bỏ tất cả bên ngoài lẫn nội tâm, bỏ vật chất cuộc đời, bỏ sự tham muốn ngũ dục, không còn đeo níu danh lợi chức quyền, thấy các pháp như thật, đó là sự biết chánh kiến của chơn lý. Ngài dùng pháp công phu thiền định nhập vào chánh định, trước khi chánh định cũng đã có sự thỏa thuận thực sống hạnh bố thí buông xả mới thành công kết quả của pháp tu thiền định sống với chánh niệm, phải có nhân đầu là chánh kiến, thấy rõ các pháp sáng suốt quyết định xuất gia là nhân tu hành quả sau cùng là thiền định.

Ngài thành Phật có ba giai đoạn là : đoạn đầu đoạn giữa và đoạn cuối rất rõ ràng như thật, cũng là bản đồ cho chúng ta theo đó tu tập sau này. Khi sắp thành đạo Ngài phải chiến đấu với các niệm từ thói quen bởi tập khí đã từng huân tập quan hệ của thế gian. Ngài dũng mãnh chiến đấu rất mãnh liệt mới vượt qua để thành đạo. Phải đối phó với tập khí cũ là nhớ đến ngai vàng, điện ngọc, là sự thụ hưởng sung sướng. Nhớ đến niệm ái dục là công chúa Da-du-đà-la, La-hầu-la. Nhớ đến cung tần mỹ nữ trong kinh gọi là ma nữ. Các niệm sinh từ ngũ dục vẫn còn luân hồi quay lại tâm niệm Ngài, đó là thói quen của sự huân tập sự ô nhiễm cuộc đời vào tâm, chờ lúc có duyên sẽ nhớ lại, đó là nghiệp do ta đã tạo, phải có trực quang mà nhận rõ, ta phải biết sợ ngũ dục là nguyên nhân tạo nên kết quả sanh tử luân hồi. Ta vào Tứ Thánh Đế là khổ, tập, diệt, đạo. Nguyên nhân sự khổ là do tập nhiễm cuộc đời. Tham dục là nhân, phải sáng suốt tu mới dứt khổ. Đạo đế là đường lối ban đầu tu xả bỏ vọng niệm là đạo đế, không nên lập luận danh từ hoàn cảnh mà hãy xét lại tâm coi đã bỏ được không? Càng xả bỏ càng gần tự tánh, cuộc sống đơn giản không dính bận, phải định hướng về sự thật, biết nguyên nhân sự thế cuộc đời là đạo đế là đạo diệt khổ. Chánh kiến còn gọi là Thánh kiến là sự thấy biết của bậc Thánh. Nếu thấy được, nói được, làm được, trí này là Thánh tri kiến đã trở về chơn tâm tự tánh từ lâu đã quên mất. Ta công phu tu tập là tập trở về chơn tâm tự tánh, là đang hướng về tự tánh hay còn gọi là trở về với Thánh tâm, vì mê muội nên thường sống với phàm tâm, tạp tâm, loạn tâm, vượt qua đoạn đường này là hàng Bồ tát. Ngày xưa Đức Phật là Bồ tát Hộ Minh phải trở lại tu một kiếp nữa mới thành Phật. Con đường này là con đường thành Phật nếu không hành đạo Bồ tát là không có gốc.

Vậy đạo Bồ tát là gì?

Gốc là bố thí, là xả bỏ sắc, tài, danh, thực, thùy là ngũ dục, lục trần. Điều này rất khó xóa bỏ, mọi thói quen nên hạn chế, hạnh Bồ tát không còn vướng kẹt, phải giải thoát từ cơ bản, là bỏ tham, bỏ tất cả sự ham muốn của thế gian, không phải do pháp thiền là giải thoát được. Thiền là phương pháp được sử dụng để thấy được tâm. Điều cần thiết là hạnh thí xả mọi dục vọng là đại bố thí. Bố thí pháp là lìa ngũ dục gọi là bỏ ngũ phàm thành Thánh. Bỏ phàm là tự ta dứt khoát, ta không tu từ con người mà phải tu từ tâm niệm, phải theo dõi niệm thường sanh, là pháp hướng dẫn ta cùng mọi người trở về chánh niệm.

Phát tâm khởi tu đầu tiên phải thấy từng tâm niệm là điều cần biết không hướng cầu một điều gì. Mục đích công phu là trở về chơn tâm tự tánh sáng suốt, chính ta phải giải thoát các pháp, các niệm thế gian.

Kinh hành, từng bước, từng bước phải thật tập trung vào từng bước để phá đi những vọng niệm, vọng tưởng lăng xăng của tâm, tất cả niệm nghĩ nhớ ta không còn liên hệ nữa, đây là việc làm của chư Thánh khó vô cùng, từng bước tập trung không xao lãng, tự kinh nghiệm cắt lìa mọi vọng niệm. Cũng như pháp niệm Phật, mượn Phật hiệu để chuyên chú vì chữ Phật là giác, khi bước phải giác biết đang bước hiện đang sống cùng tánh giác ( tánh Phật ). Nếu đang bước tâm khởi nghĩ chuyện gì là ta đang bị tà niệm xen tạp, vì các niệm đang xen tạp là nghiệp của lục đạo nên đi kinh hành mà mất chánh niệm. Theo dõi hơi thở biết đang thở ra hít vào nếu không thường giác biết là sắp sa vào một vọng niệm. Khi bắt đầu hôn trầm cũng còn man máng tánh giác đã yếu dần vì biết ta sắp ngủ, cơn buồn ngủ là ma ngủ dục đang hợp tác thỏa thuận với niệm hiện hành này, cơ hội của tà niệm dẫn dắt ta lạc vào dục lạc, do mất chánh niệm trở thành bất giác dẫn ta vào mê hồn phiêu bạc trong giấc ngủ, hôn trầm không còn biết gì nữa. Chỉ vì ta không phát hiện được niệm ngủ là ma thùy miên quyến rũ ta nhập vào ngũ triền cái. Khi khởi niệm dục lạc của cơn buồn ngủ, tự tánh giác ta phát hiện, tức tốc đọc tên điểm danh rõ ràng biết chắc niệm này là gì, trước khi buồn ngủ ta cũng biết đang muốn ngủ nếu ta đồng ý niệm này lập tức sẽ dẫn ta vì ta không dũng mãnh vượt qua sẽ đi vào cửa luân trầm vì đã có sự thỏa thuận trước với ma ngũ dục mà ta không khống chế được nên nhập vào thế giới ma. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật đã chỉ rõ các niệm sáng suốt của 16 chánh sĩ tại tâm của mỗi người đó là hạnh đức điều phục của các Bồ tát. Tâm hạnh này là “Chế hạnh Bồ tát”, là sức khống chế lại các ma chướng làm trở ngại con đường chánh giác. Nếu có ai nhắc nhở kêu gọi vì vô minh sẽ khởi niệm sân vì ngã mạn cự cãi lại tìm cách bào chữa là sự đồng cảm với vô minh từ vô lượng kiếp sẵn sàng kết tập với vô minh là thói quen, tất cả chỉ từ nơi một niệm. Ta phải tự giác, tự giáo hóa lấy chớ không ai giác được cho mình. Ta phải nhận rõ niệm là sự thường nhớ về quá khứ, nghĩ tưởng đến tương lai, hằng niệm niệm không ngừng, gọi là thường sống với tạp niệm. Nếu không biết rõ điều này, không thông thấu việc này, thì công phu khó viên mãn. Chánh niệm điều phục được vọng niệm là chơn như bản giác sáng suốt nhận biết.

Vậy giác là gì? Là sự biết được vọng tâm, chỉ có niệm chánh trực là tâm Vương mới có quyền bắt được các niệm tà dại mà giáo hóa dạy dỗ. Nếu không giác biết sẽ tự hòa nhập vào các tà niệm mà chịu đau khổ vì lạc lầm. Ta phải có cách hiểu biết tối thiểu mới có thể bước vào hành trình trong sự công phu chánh niệm. Nếu biết được vọng tâm thì sự sáng suốt biết vọng tâm là trí huệ. Nếu không trí huệ thì không biết được niệm nào là mê mà tự chuyển hóa, khi đã hiếu biết chơn lý thì công phu thật thoải mái nhẹ nhàng, như ta biết được hoa đốm chợt có chợt không giữa bầu trời là không thật, thì khi vừa khởi vọng niệm cũng như hoa đốm ta biết rõ ràng đó là chợt hiện nên an ổn không sợ sệt hay mê đắm duyên theo. Ta biết hoa đốm cũng như vọng trần là đã biết được tánh giác. Cũng giống như chiêm bao, khi tỉnh thức dậy biết là không thật nên an ổn, vì lầm chấp cho là thật mãi đuổi bắt nên sanh tâm đau khổ.

Niết Bàn là trở về bản giác, Như Lai là bất khứ bất lai. Cực Lạc là giới thiệu chín phẩm hoa sen từ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, La Hán, Bích Chi Phật, ta tu phải nắm rõ pháp không lập luận lôi thôi.

Người thật công phu chánh niệm phải đi thẳng vào tánh giác, bỏ hết mọi lập luận, mọi khái niệm, các tư tưởng bên ngoài sự tiếp xúc bởi thấy nghe. Trong kinh sách không có Phật, ta mượn kinh làm phương tiện để chỉ tự tánh thanh tịnh hằng giác rõ thấu các pháp chính là tự tánh Phật. Ta không tu cho Phật tưởng tượng mà mục đích tu để chính ta tự giác tự ngộ bản tánh chơn như, phải xả bỏ mọi kiến thức.

Chánh kiến là giai đoạn đầu thấy được sự chi phối của thiên nhiên, quan trọng là luật nhân quả. Phật thị hiện nơi thế gian vì đại sự tu hành thành Phật để độ chúng sinh, dạy phương pháp tu hành xả bỏ các niệm vọng tưởng, điên đảo vì vô minh, trực nhận biết chơn tâm tự tánh sáng suốt giác ngộ. Ngài dạy ta phải bỏ các thú vui ngũ dục, bằng chứng là Ngài đã xả bỏ, đây là chơn lý của sự thật.

Giai đoạn đầu ngài lập hạnh xả bỏ, đoạn giữa xuất gia tu học, đoạn cuối là thiền định. Ta là người tu theo Phật giáo ( Phật là tánh giác, giáo là dạy ) là trở về lời dạy Tánh giác, của bậc giác ngộ. Giai đoạn đầu phải có hạnh xả bỏ, đoạn giữa xuất gia lìa bỏ nhà thế tục, lìa bỏ phiền não gia, xuất tam giới gia tất cả đều lìa, mới đến giai đoạn cuối là công phu trở về chánh niệm là thiền định, ta phải biết rõ phương pháp tu của Đức Phật mà thực hành.

Sự thỏa thuận xóa bỏ các nghiệp chướng tự tâm là biết rõ các niệm nơi lòng, hướng đến trò chuyện bằng cách quán sát rõ ràng không còn giao tiếp với nghiệp nợ tiền khiên, oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp. Ta phải biết nhân hiện tại có xả bỏ được không? Quán xét nếu còn niệm vướng kẹt thì khó mà giải thoát được chỉ tự nơi ta ( tự độ ). Nếu nắm níu thế gian cứng chắc quá thì vẫn còn gieo nhân lục đạo rõ ràng, gieo nhân Thánh thì sẽ có quả Thánh. Nếu tu mà không thấy sự thật là tự mình lừa đảo lấy mình. Niệm mê vốn nhiều đời nhiều kiếp, nhưng tánh giác vẫn thường hằng, chỉ cần ta sáng suốt biết sử dụng tánh giác thì mê sẽ không có mặt, sự mê muội khổ đau chỉ từ nội bộ của tự tâm niệm ta bày biến mà nên, đều có sự đồng tình chính ý ta sắp đặt, không ai đem đến cho ta cả. Sở dĩ ta không xả bỏ được vì chưa sử dụng được tánh giác, chưa biết ta đang ở dục giới nơi đầy ham muốn khó ra vô cùng vì thế giới này rất kiên cố, nhờ có chơn lý từ đức Phật hào quang rọi vào mà có sự tướng của Cực lạc trong sạch, dẫn ta vượt lên để đến Niết Bàn. Nơi đây không có tham sân si, phiền não, không có vọng niệm chỉ toàn chơn như, chơn như và chơn như. Dục giới là lục đạo mãi mãi vẫn là lục đạo. Bát chánh đạo cần chánh kiến sẽ đầy đủ tất cả sự thấy biết của bậc Thánh, về chữ hiếu, không nên lầm lạc vì không biết đầu dây mối nhợ. Hiếu, dù cho có cõng cha mẹ đi giáp vòng núi Tu-di cũng không đáp đủ, nếu muốn trả ơn này phải tu giác ngộ, giúp cha mẹ hiểu biết giáo lý mà tu hành trong chánh kiến là thấy được tánh chơn thật, sống được với sự chơn thật đó là đại báo hiếu vì đã chỉ được con đường dứt khổ. Tánh chơn như là kim cang không gì phá hoại được, là bản tánh chơn thường.

Tâm thường thay đổi biến chuyển từ niệm này sang niệm khác gọi là vô thường của trạng thái sanh diệt, diệt sanh vô cùng vô tận, vô lượng vô biên. Tâm niệm vô thường nên sanh vạn pháp cũng vô thường, luôn biến đổi, không cho pháp nào là tốt cả. Phật ma cũng chỉ là tâm niệm mà sinh ra nên tất cả đều vô thường. Vạn vật đều do tâm niệm sanh mà có nên tâm niệm là gốc. Nếu bỏ tâm niệm mà tu là tu theo ngoại đạo tà ma. Giờ giờ, phút phút đều kiểm soát từng tâm niệm, sống được với tâm niệm là ta sống như thật ( chơn giác ).

Tại sao nói tâm niệm là vô thường, vì vọng tâm là vô thường, chơn tâm tự tánh là thường, nếu thấy niệm niệm biến hiện là vọng tâm, vọng tưởng chỉ tồn tại trong chốc lát rồi tự biến mất. Khi gợi lên tánh giận, tánh ghét, tánh thương là phải biết tâm đang hiện hành là tâm giận, tâm ghét, tâm thương đang nổi lên. Phải biết ta đang giận hay đang thương, biết rõ nó giống như làn sóng, ta không đồng thuận với các tà niệm này. Ta thường kết nối với các niệm sai sử này mà sinh ra hành động đánh đập chém giết, thù hận, đam mê, đó là niệm sanh chạy theo ngũ dục không thật, quen bỏ chơn tâm mà Tổ nói ta thường nhận khách làm chủ hay nhận giặc làm con, nhận ma cho là Phật, nấu cát muốn thành cơm là điều không thể có. Cứ mãi ôm lấy vọng tâm mà tu không về chỗ cứu cánh. Phật dạy hơi thở vào rồi ra, tư tưởng đến rồi đi, cảm giác có rồi không, không thật vô thường, luôn tan biến liên tục. Phải thấy được trạng thái diễn biến của thân và tâm, thì ta không còn chi phối bởi ngã ( ngã là sự kết tập của sự muốn ham ). Từ xưa đến nay là thói quen tạo thành nghiệp như cho là tôi được tôn trọng, tôi phải, tôi giàu sang, tôi địa vị, tôi dễ thương v.v… đó là tự ngã. Hiểu biết sai lầm cho là tôi gọi là ngã kiến, lúc nào ngã cũng hiện diện, tu là lìa bỏ ngã để trở lại niệm sáng suốt.

Chánh tư duy là suy nghĩ đúng sự thật, tư tưởng không bị chi phối bởi cảm giác. Nếu tâm vướng mắc vào cảm giác sẽ đuổi theo những đối tượng bên ngoài. Ta tu tự biết chỉnh sửa tâm, không nương vào sự tướng bên ngoài, niệm tham dục vào cõi trần chỉ là tạm bợ, khiến tâm ta bị vọng động và rối loạn. Ta không hợp tác cùng dục vọng chớ không đàn áp hay áp lực nó. Nếu giận hờn ghen ghét sân hận nổi lên ta phải sáng suốt tự giác biết lấy quyết định không theo là đã trở về với chánh niệm. Nếu dục vọng khởi lên mà ta thỏa mãn nó là đã cùng chung ý niệm với dục trần liền cuống hút vào nghiệp chúng sanh. Đây là pháp tu giải thoát, nếu có duyên thì cố gắng thực hành, các pháp môn đều tùy thuộc căn tánh chúng sanh, tùy duyên mà sử dụng, pháp không quý tiện, tùy theo trình độ mỗi con người mà áp dụng. Nếu bố thí cúng dường giữ năm giới thì vẫn làm người hưởng ngũ dục thế gian, hưởng các pháp tạm bợ là vợ đẹp con xinh, sang giàu nhưng vẫn còn là thú vui của lục đạo, gọi là cõi tục, đời đời kiếp kiếp vẫn luân hồi tự mỗi người tự chọn lấy nhân mà nhận quả.

Chánh tư duy là ý thức được sự suy nghĩ của các giác quan, nếu buông bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng bấy nhiêu, dần dần bớt sự xáo trộn loạn cuồng trói buộc vì dục vọng. Nếu sáng suốt nhận biết chân lý thì khi công phu thiền định rất an ổn, nhẹ nhàng, thoải mái. Con đường vào Thánh Đế là đã có nhân buông xả bước đầu, tư tưởng không còn phân biệt của các niệm tham sân si, phải ý thức được tâm này mà buông bỏ thì tâm chơn như sẽ hiển hiện.

Không bất nhẫn, bất bình trước hoàn cảnh mà khởi tâm từ thương xót giúp đỡ cho người cần cứu giúp, làm ích lợi tất cả sự sống chung quanh ( hạnh Bồ Tát Quán Âm ).

Chánh ngữ dạy ta sống cùng thế giới chung quanh với tinh thần hòa hợp, hòa ái, không nói sai sự thật, không nói lời căm thù, lời mâu thuẫn, lời lợi dụng huyễn hoặc, lời nói luôn hòa giải, xây dựng đạo đức hiểu biết đem lợi ích cho người. Phật đã dạy cho La Hầu La đừng bao giờ vì bất cứ điều gì mà nói lời không chân thật, dù có lợi ích cho mình cũng không nên nói ra, vì tu là trở về sự thật phải thật tu trở về tâm, không vì hoàn cảnh nào chi phối cả, nên trở về bản tâm chơn thật, có thành Phật mới là cơ hội cởi mở tâm mình, hầu đối trị với mọi trạng thái bệnh hoạn của tâm hồn.

Chánh nghiệp có nghĩa là trở lại lối sống chơn chánh, không sát sanh không làm người khác đau khổ, không vì sự dục vọng cho mình thỏa mãn mà làm khổ người khác.

Đả Thiền Thất là công phu hầu phát hiện tánh giác thường hằng. Người mới vào những ngày đầu của khóa đã Thiền Thất rất khó chịu với các vị hướng dẫn, vì bị bó chặt trong tánh giác, cả thân và tâm đều giữ tuyệt nhiên trong chánh niệm. Người nhập Thiền không được nêu lên một ý kiến nào cả vì khi khởi sinh ý niệm đã là tạp niệm, phải triệt để tuân thủ nghe theo vị hướng dẫn, không sanh khởi một niệm nào, hoàn toàn người công phu tu tập không được nghĩ điều gì cả, vì sao? Vì ta thường bị vọng niệm sai khiến nhiệm vụ người tu không xao lãng trước niệm, niệm phải thường ở trong tánh giác, còn ý này nọ là còn yếu đuối, còn tham muốn được theo ý mình. Thiền sinh không nêu ý kiến, tuyệt đối chấp hành, nhất nhất phải thường giữ chánh niệm để phát hiện tánh giác. Tánh giác là chánh niệm, khi công phu theo dõi hơi thở qua trạng thái phồng xẹp, bỗng phát hiện vọng tâm đến, biết đang thở phồng xẹp, vọng tâm lại đến người công phu phải thấy vọng tâm, sự thấy vọng tâm là tánh giác đã phát hiện, phát hiện vọng tâm mà bỏ quên phồng xẹp là đã quên tánh giác. Ngồi lưng thẳng, mặc dù thấy vọng niệm đến, vọng tâm vẫn đến với ta, ta thấy vọng niệm vọng tâm là tánh giác thấy đã phát hiện ra vọng niệm vọng tâm, sự thấy biết này là có tánh giác thường hằng. Nếu thấy vọng niệm liền biết, vẫn kiểm soát hơi thở của trạng thái phồng xẹp vào ra là tánh giác đang kiểm soát. Tánh giác thường hằng là thấy hơi thở nơi thân đang phồng xẹp, quên phồng xẹp là bất giác chạy theo vọng tâm thì khi có khi không, còn giữ được niệm ngồi lưng thẳng là còn tánh giác. Nếu gục xuống, nghiêng qua chênh lại là bất giác ; khi bị mỏi, đau là đang thọ nhận xúc thọ. Khi đang công phu trạng thái phồng xẹp bỗng niệm khởi biết đó là vọng tâm, vậy ai biết đó là vọng tâm? Chính là tánh giác, xưa nay ta thường sống với vọng tâm nên không nhận ra tánh giác, khi có người làm phiền ta, tánh giác liền biết họ đang làm phiền liền tự chấm dứt suy nghĩ đó là sử dụng tánh giác. Nếu bất giác liền nghĩ nếu họ làm phiền ta, ta sẽ làm phiền lại họ, bằng cách nói nặng nhẹ sanh hành động do tác ý trả thù đó là đang đuổi theo cộng niệm vào người đối diện. Khi ở trong chánh giác là chánh quán, nếu chạy theo vọng niệm là tà quán. Thực tại đang ở trong phồng xẹp muốn đưa về mục gì vào trong chánh giác là chánh quán. Tánh giác tượng trưng cho mắt sáng, biết rõ tất cả pháp do niệm sinh, nên không lầm lạc, mục đích đả thiền thất là giúp ta ở trong tánh giác. Mọi cử động đều ở trong chánh giác, tánh giác đến bàn chuyện gì, bàn chuyện là từ vọng tâm người đến, phải nghe từ tánh giác người nghe sáng suốt giác là tự nơi ta, còn chuyện người đem đến là đối đãi, ta nên nghe bằng tánh giác không vì chuyện bên ngoài là vọng niệm mà sinh tâm bực bội, vui buồn, bắt buộc theo ý riêng của ta nên có câu “đừng đem tánh giác làm phiền người ta”. Niệm niệm không xao lãng là niệm Phật, nếu niệm không xao lãng là ở trong tánh giác, niệm giới là ở trong tánh giác. Nếu là Tỳ Kheo giữ 250 giới, vừa đụng giới biết liền là thường ở trong tánh giác, phạm giới là thất giác. Người cư sĩ giữ năm giới, đụng giới không phạm là ở trong tánh giác vì người giác sáng suốt còn như mê thì bị nghiệp cuống hút dập vùi vào niệm sanh diệt.

Đang kinh hành từng bước, không quên từng bước dỡ, bước, đạp là ở trong tánh giác. Bên ngoài đời sống làm việc gì được thành công đều nhờ tánh giác đó là nhớ, sự chú tâm chuyên nhất không xao lãng, luôn chú ý vào công việc là pháp hiện hành nên không sai trái. Mọi cử động sinh hoạt hằng ngày đều có tánh giác kề bên, dù niệm niệm liên tiếp mà thường biết ta đang niệm niệm, đang niệm gì là có tánh giác kề bên vì luôn ở trong sự chú ý. Xét kỹ từ lời nói, xét kỹ từng việc làm là ở trong chánh niệm, là chánh giác sống với chánh niệm không chi phối thời gian và không gian, không bị tập tục thói quen chi phối. Nếu các niệm do tập khí chen lẫn làm ta mờ lu tánh giác, phải ý thức theo từng việc làm hiện tại.

Chánh mạng là chọn một phương pháp sinh sống đừng liên quan làm hại sinh mạng người khác hay làm hại bất cứ loài nào.

Chánh tinh tấn là gốc rễ của sự thành công. Nếu muốn lên tới đỉnh núi mà cứ ngồi mơ tưởng, thì không thể đạt được mục đích. Hãy tự đi tánh giác là sự sáng suốt tinh tấn luôn phát hiện các pháp. Tinh tấn là sự nỗ lực hết sức vượt qua tất cả dù thuận duyên hay nghịch duyên cũng cố gắng cương quyết vượt lên. Tinh tấn là trạng thái quân bình trong tĩnh lặng, không đàn áp, sự tinh tấn của Đức Phật chỉ giác ngộ cho Ngài chớ không cho ta được, mỗi người chúng ta hãy tự thắp đuốc mà đi.

Chánh niệm là bước thứ sáu trên đường Bát chánh. Chánh niệm là ý thức được những gì trong giờ phút hiện tại đang xảy ra với tâm ta. Khi đi phải ý thức được mọi chuyển động của cơ thể, quán hơi thở phải ý thức được sự ra vào lên xuống. Mọi việc đều biết nhưng tánh giác vẫn thường kiểm soát hơi thở không quên là chánh niệm. Biết từng tư tưởng, từng sự cảm giác, đang ngồi mà tánh giác phát hiện được ta đang có tư tưởng nghĩ ngợi mà dừng lại, không chạy theo là đang sử dụng tánh giác để quán xét tư tưởng. Khi tán loạn, tánh giác phát hiện, liền trở về hơi thở phồng xẹp, là trở về chánh niệm. Mọi hành động đều biết không cố chấp, gò bó vào hình tướng nào cả, không luyến tiếc một niệm nào cả, cũng không xua đuổi, nếu có hoàn cảnh không như ý làm bực bội cáu gắt, nóng giận là niệm sân đã nổi lên, tánh giác phải phát hiện mà buông xả. Nếu mọi trạng thái biến đổi nơi tâm mà không hay biết là đang sử dụng tâm si, không biết phát hiện là tâm si. Nếu mọi việc diễn biến mà ta ở trong tánh giác, tâm không dính mắc vào sự diễn biến là đại viên cảnh trí. Vì đã có diệu quan sát trí, quán sát tất cả thế giới tại tâm nên tâm không chướng ngại, tất cả mắt tai mũi lưỡi thân ý đều là những cơ quan quán sát nên gọi là diệu quan sát trí. Chánh niệm sẽ đem đến cho ta sự cân bằng an định vì đã biết rõ các chúng sanh trong lục đạo, đâu là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Nhân, Thiên, A-tu-la, Thánh nhân, Duyên giác, Bồ tát thật rõ ràng. Tâm ta an định, các hiện tượng xảy ra coi như một vở tuồng.

Chánh định nếu thường ở trong chánh niệm là thường định. Muốn tìm hiểu thế giới xung quanh hãy tìm hiểu chính mình. Công phu chánh niệm là cơ hội rất quý giúp ta phát triển định lực. Chánh niệm sẽ có khả năng soi thấu được chân tướng của sự vật, con người và vũ trụ gọi là vô lượng quang.

Ta đừng nghĩ nhớ nhiều về quá khứ vì đó là vọng tưởng, nghĩ đến tương lai là vọng tâm, lúc nào cũng tự cảnh giác thường ở trong tánh giác.

Người mới tu tập phải nhận biết từng hơi thở, từng bước đi, từng vọng niệm, hoàn cảnh nào đến với tâm phải thường tỉnh thức là thường giác.

Sự cảm thọ thường làm cho tâm niệm sinh khởi, nếu không vừa ý thì sân tâm nổi lên, xuất hiện hành động cáu gắt, bực bội liền có tâm si là vô minh, đó là sự hiện hành của tâm sở. Người công phu chánh niệm không sanh tâm, dù như ý hay bất như ý tâm vẫn bình an. Những sự đói khổ, già khổ, bệnh khổ là nguyên nhân trong cuộc đời ta cũng không xua đuổi chê chán, đến giờ hấp hối là chết khổ. Chết là đang thọ khổ, cũng khởi niệm chết khổ, tất cả đều cho là khổ cũng do tâm niệm sanh, phải vượt qua bằng tâm hoan hỷ, với niệm bằng lòng chịu sự đau đớn của xác thân. Cảm thọ là sự tiếp xúc, còn tánh giác vẫn là tánh giác hiện đang nhận biết sự cảm thọ đau đớn của thân. Phải biết rằng sắc thọ tưởng hành thức là ngũ uẩn vốn giai không là không thật. Vạn vật cũng không thật đều do tâm sanh, phải đi vào quán xét vào sự vận hành của tâm. Công phu chánh niệm phải bỏ dần những thói quen, những tập khí ở cuộc đời đã thường huân tập thành ghiền, khó bỏ. Tánh ghiền sanh tâm niệm bám víu vào pháp thế gian là sự cảm thọ trong thân thường có cảm giác do xúc thọ cảm nhận sự dễ chịu hay khó chịu của thân. Khi thọ dễ chịu cũng không ưa thích của sự nhẹ nhàng và lúc khó chịu cũng không có ý xua đuổi chán ghét, hãy quán sát thật kỹ sự cảm thọ của thân như nóng, lạnh, ngứa ngáy, êm dịu, nặng nề tự đến rồi tự đi mà không có niệm phê phán, ghét bỏ, không phản ảnh. Phải tập sự cảm thọ tất cả mà tâm không vướng mắc vui buồn, khổ sở, vì còn vướng mắc là sanh vọng tâm, tà tâm gọi là nhiễm trần. Phải luôn luôn chánh niệm là thường ở trong chánh giác, khi công phu phải bắt đầu bằng cách chú ý vào hởi thở, sự lên xuống nơi bụng, ý thức hoàn toàn, quan trọng là phải ở trong trạng thái tự nhiên. Nếu còn khởi niệm đòi hỏi, xin xỏ nọ kia là còn sự tham muốn của thân, còn giữ bản ngã không thành tựu chánh niệm được. Vì cảm thọ nên sanh niệm ghét yêu, khó khăn, bực bội, ta phải cương quyết xa lìa thất tình lục dục, sống với tâm tự nhiên vì tâm tự nhiên là bản giác, mất tự nhiên là mất giác. Thương ghét, vui buồn tạo nên sự mất quân bình của tâm, thọ tất cả cảm giác mà không sanh tâm, không có vọng tâm. Ta mãi lăn vùi trong luân hồi sanh tử chỉ vì vọng tâm, mãi đuổi theo niệm cá nhân riêng tư của bản ngã, sự đau khổ vui buồn không là một khối cứng chắc mà sẽ tan biến dần dần đó là sự sanh diệt vô thường của các pháp, nên sống với tánh giác không đeo đuổi và ghét bỏ pháp. Lúc công phu nếu bên ngoài có sự ồn ào ta chỉ biết thế gian vốn ồn ào, ta không hề cảm thọ sự ồn ào mà sanh niệm bực bội, khó chịu, chán ghét. Nếu còn những khái niệm này thì sân tâm, si tâm đồng khởi lên, dẫn ta vào vô minh nên ta phải dũng cảm đả phá tiêu tan vọng tâm gọi là đả thiền thất. Phá bỏ vọng tâm sẽ có định lực rất kiên cố dù ở trong gió bão nóng lạnh định lực vẫn tự nhiên, không còn lệ thuộc vào các cảm thọ bên ngoài nên định rất kiên cố. Sự đau đớn của xác thân đến mà ta có năng lực nhận biết rõ ràng, không sanh vọng niệm của sự cảm thọ thì càng ngày định lực càng lớn, càng sáng suốt kinh nghiệm về sự cảm thọ sanh diệt, định lực tập trung vào sự đau, sự khỏe, sự thoải mái qua trạng thái của các cảm thọ ta càng ở sâu nơi chánh niệm, càng dễ phát hiện những hiện tượng ngay trước mắt ta, phát hiện ngay tâm hiện hành thực tại là chánh niệm. Chánh niệm không phải là không niệm mà là sự quán sát chiếu thẳng vào niệm đang sinh khởi, đang nhận sự cảm thọ sanh tâm, nơi giờ khắc hiện tại theo mọi cách hiện hành của tâm, phải sáng suốt xử lý, không duyên theo niệm, cuống hút vào cuộc đời là chánh niệm, chánh huệ. Khi vọng tâm sinh khởi do thọ lạc thọ khổ phải quán sát thật kỹ trở lại hơi thở phồng xẹp là pháp nương tựa giúp ta không theo niệm khởi. Sự ghi nhận hơi thở giúp ta không xa rời tánh giác, đó là tính cách tự nhiên. Khi đau, ngứa, mát, nóng, lạnh, phồng, xẹp đều quán sát tự nhiên sáng suốt là chánh niệm, sống với hiện tiền tâm không nghĩ nhớ vu vơ.

Cách đây hơn 2500 năm Đức Phật tịch diệt, nhưng pháp Phật sẽ sống lại khi có người tìm chỉ cách khai ngộ được tánh giác, Đức Phật cũng thành đạo tại chỗ này nên Phật nói “Ta đến đây trao truyền cho các ông chơn như – bản tánh hằng giác là ngộ nhập tri kiến Phật Bồ đề diệu tâm”. Vì việc này mà người tu hết sức khổ công nhọc nhằn khó tìm thấy được. Nếu đã đủ duyên gặp chánh pháp là điều hy hữu, phải dụng công tu tập để tánh giác không còn bị che mờ bởi dục vọng vô minh do dãi đãi phóng tâm, phóng dật, thùy miên, hôn trầm, trạo cử từ lâu đã làm chủ dẫn ta đọa lạc vòng quanh trong lục đạo luân hồi đen tối. Khi phát hiện được tánh giác là Phật (tánh giác) ta đã sống lại, nên đạo Phật đã sống lại tại tâm ta đang hiện tiền, ánh sáng trí tuệ này là ngọn đèn chơn lý ( tâm đăng ) sáng suốt soi sáng truyền đăng tục diệm cho mọi người tỉnh thức. Không đem tâm niệm bày biện bên ngoài với tâm dối gạt, lừa đảo chúng sanh mãi chịu mê lầm đọa lạc đau khổ vì sa đọa si mê. Chúng sinh đều có tánh giác vì bỏ quên nên lu mờ, xa lìa chơn tánh. Người hướng dẫn là đại diện cho tánh giác, có bổn phận khơi lại dẫn đường cho mọi người trở về chơn giác là đền ơn chư Phật, đáp ơn Phụ Mẫu. Chỉ cách khơi lại tánh giác là đền ơn chúng sanh, chỉ lại bản giác sẵn có nơi mọi người đó là mật ý của Phật chỉ lại tánh chơn như của vạn vật.

Tất cả các tế bào, sự biến chuyển của thân, đến nội tâm vạn vật chung quanh đều gọi chung là pháp. Tánh giác là sự sáng suốt soi thấu được tất cả vạn vật ( vô lượng quang ), từ tế bào nhỏ vi tế đến núi non Thiên hà đại địa tự tánh đều biết rõ là pháp, nếu tự tánh không sáng suốt thì không ai biết tất cả là pháp. Sự vui buồn, giận ghét, thương, nhà cửa, cây cối, xe cộ v.v… tánh giác biết rõ đó là pháp. Trở về với tánh giác bước đầu là quy y Phật, quy y Pháp sáng suốt biết rõ đó là biết pháp. Pháp bao gồm tất cả tế bào trong thân cùng tất cả sinh vật, qua các yếu tố của tâm như tình cảm cũng gọi chung là pháp. Điều cần thiết của người công phu là thấy được pháp, thấy tất cả pháp từ trong thân đến vạn vật bên ngoài, phải ý thức từng yếu tố, ý thức từng sự biến chuyển của chúng ( vô thường ), phải chiêm nghiệm chơn như là sự thế chơn thật của vạn vật, tất cả đều biến hiện chuyển đổi vô thường sanh diệt. Các pháp là như vậy, không đứng trụ chắc chắn mà có niệm chấp thật nên tâm bị nhiễm ô vì sự tham sự khoái lạc sung sướng muốn cố giữ, nhưng các pháp đều biến chuyển không thật, chỉ có tự tánh chơn như là như thật. Chỉ vì tâm sai khác nên muôn pháp phải trụ vào sự muốn thích, yêu thương, chán ghét thì xua đuổi pháp khi bất như ý vì không thỏa mãn tánh tham hưởng sự sung sướng. Tự tại trong chánh niệm là nhìn sự vật như thật không vướng bận một niệm tưởng nào cả. Nước chảy là như vậy, mặt trời nóng là như vậy, cây cối mọc là như vậy, thân sanh diệt là như vậy, các pháp thành tựu dị diệt là như vậy, đời sống tham dục là như vậy, ai tham dục là như vậy, ai sân hận là như vậy, ai giác ngộ là như vậy… tính chất đều như vậy. Có nhân là có quả, không có tâm chọn lựa phân biệt, so sánh, quan niệm thành kiến. Khi khởi niệm thích ưa, chán nản, không ủng hộ, không chống đối, đó chỉ là thành kiến của cá nhân, phải sống trong thực trạng vô tư, nếu phê phán can thiệp vào là còn sử dụng vọng tâm. Tất cả pháp có mặt đều từ nhân quả mà có, càng đuổi theo văn chương, càng lập nhiều văn tự là càng xa tánh giác vì mãi sử dụng hoàn cảnh bên ngoài, mãi sanh niệm cho là hay dở, mãi theo hình thức văn tự mà mất đi tánh giác. Thấy rõ pháp mà không hề bình luận xa xôi, ta phải sống với thực tại sáng suốt không bồn chồn về quá khứ, không nghĩ nhớ tương lai, điều này rất khó làm, phải chiêm nghiệm hoàn toàn thực tế những gì đang xảy ra.

Khi chánh niệm thì có chánh định, chánh trí huệ. Tất cả các niệm mê đều được chuyển hóa gọi là Thánh niệm, niệm của Bồ Tát, La Hán, của bậc giác ngộ. Chúng sanh vì thất niệm nên thường sử dụng tạp niệm, không biết đến Thánh niệm. Thánh niệm là đả phá tan phiền não nhiều đời kiếp. Chúng ta tu thiền thường lạc vào cảnh giới vô minh nên thất niệm. Kinh Bát Nhã dạy ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Nếu biết ngũ uẩn không thật thì không có khổ nào cả. Người tu có khi lạc vào cảnh giới Trời, cho là giải thoát là điều lầm lạc, vạn pháp do tâm sanh mà hiện ra có cảnh. Tâm sanh do từ niệm khởi mà có cảnh tạo ra trạng thái sanh diệt không thật, dù có vui đẹp thế nào cũng là các trạng thái vô thường, do từ niệm khởi thay đổi của tâm. Ngày xưa khi học đạo với ngài Kalama, Đức Phật cũng đi vào cõi Trời phi phi tưởng, Ngài nói với đức Thế Tôn sẽ giao nửa cõi này cho Thế Tôn cai quản nhưng Thế Tôn xin từ giã Thầy ra đi vì Ngài biết rằng chỗ này chưa giải thoát. Cõi Trời vẫn chưa giải thoát, ta phải xét kỹ để không lầm lạc, cõi này do phước tạo nên giống như mũi tên bắn lên cao rồi sẽ tự rớt xuống không giải thoát, Ngũ Tổ nói “Nếu không thấy được chơn tâm thì không phước nào cứu được”.

Khi chánh niệm thì chánh định, lúc đó nếu các tập khí phiền não vô minh vừa khởi ta sẽ giác biết, nhờ nhiều lần giữ chánh định nên vô minh phiền não giảm dần. Ta biết đây là nghiệp vô minh từ nhiều đời nhiều kiếp vì mê muội kiến chấp nên cho việc này là phải quấy, tốt xấu đều là vọng chấp, nên phiền não hoặc, kiến hoặc, tư hoặc là suy nghĩ của cá nhân nối tiếp xuất hiện mà sai xử, lúc nào cũng phải chánh niệm.

Đời sống chánh niệm của bậc Thánh mọi việc, mọi hành động đều chánh niệm. Không tham ăn là ăn không đòi hỏi cao lương mỹ vị ngọt ngon, chỉ ăn để sống để tu học giác ngộ. Không tham ngủ, nhờ sự tỉnh thức làm sự sống, sống bằng thiền duyệt thực, phải lấy thiền định làm thức ăn tinh thần.

Đi trong chánh niệm, đang đi khởi niệm gì đều biết cả. Ngủ, đứng, nằm, ngồi đều chánh niệm. Việc làm cũng ở trong chánh niệm, trong giờ khắc mỗi hành động đều bắt gặp sự khởi niệm của tâm hiện hành. Phải thường biết mà sống với tánh giác đó là chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Chánh niệm là thường phát hiện các niệm, thường chánh niệm thì đã chứng quả vô sanh. Nếu có duyên độ chúng sinh khởi niệm vì lòng từ bi cứu giúp chúng sanh giác ngộ nhưng không sanh lại niệm dục vọng xưa cũ, dù mang thân nào cũng không sanh tâm phiền não, cố chấp, tất cả đều tùy duyên, tùy nghiệp mà hiện, hoàn cảnh nào cũng đều chứng đắc vô sanh. Ta vì vô minh nên sanh tâm khởi niệm liên tục, không giờ nào ngơi nghỉ nên lúc vui, giận, buồn tất cả đều do tâm sanh.

Ta vẫn đối đãi với mọi người bằng tánh giác, dù hoàn cảnh nào cũng không tham sân si, phiền não, không còn si mê, đã mất hết tâm niệm thế tục gọi là bậc Thánh niệm, dù phàm Thánh đồng cư nhưng không bao giờ khởi niệm phiền não về sự vô minh của người đối diện. Khi đối vật bất động hay các loài vẫn thường sanh chánh niệm là không sinh khởi niệm yêu thích hay ham muốn, ghét ưa phải cảnh giác vì đây là chỗ thường bị thất niệm. Ta không ôm giữ niệm quá khứ, phải thấy sáng suốt và sống với niệm hiện tại. Lúc đi đứng nằm ngồi hằng ngày quán sát các niệm rõ ràng, coi niệm gì hiện tại khởi lên, ta có bị đồng hóa với niệm đang khởi không? Có nhập vào niệm hay không? Hay ta đang tỉnh giác với niệm đó, nên biết rằng có vọng chấp đều từ tư tưởng tạo nên không thật có. Ta mê lầm thường sống cùng niệm quá khứ nên tâm cằn cỗi, già nua, vì thường đánh mất hiện tại, mất sự hiện hữu của tánh giác, mãi ở trong thế giới cũ những gì phiền não ta càng nhớ nhiều hơn gọi là vọng tưởng, tu mà còn mang tâm niệm sau này thành Bồ Tát, thành Phật, được về Cực Lạc, Niết bàn để được sung sướng đó là vọng tâm, không hiện hữu sự thật. Nếu phát hiện vọng niệm liền trở về chánh niệm tức thời tự nhiên đã giác ngắn gọn không suy nghĩ lung tung. Nên ý thức thực tại, những gì xảy ra chung quanh chúng ta đều biết, nhưng không hòa nhập bởi sự lôi cuống vào đó chuyện của người là niệm vướng mắc của người, là không cộng nghiệp vào cảnh giới vào cảnh tục ở thế gian. Ta đừng ôm chấp niệm của ta mà cũng đừng ôm niệm của người, đem đầy dẫy vào tâm, làm chật cứng đen tối bởi vô minh, ngu muội mà bỏ đi tánh giác, phải đối phó với niệm hiện tại chính xác và tự tại. Công phu tu tập là bỏ hẳn các niệm thế gian như hứa hẹn một công việc gì, cũng không đặt nặng mà bỏ quên chánh niệm làm bất giác thực tại. Sự tự nhiên với hiện tại làm tâm ta tĩnh lặng là Niết Bàn, vì không chỉ được Niết Bàn nên Thế Tôn phương tiện biến hóa ra có cảnh giới Cực Lạc. Trong cảnh giới này chưa hoàn toàn tĩnh lặng vì mới là an đưỡng Quốc Cực Lạc, là chỉ sự an ổn dành cho người có tâm an lạc, tu tập đến đới nghiệp vãng sanh là Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, phải một lần tu tập nữa mới chánh giác ( thành Phật ) là Niết Bàn tĩnh lặng. Cực Lạc vẫn còn có sắc ( còn trụ ), có tư tưởng dù đã vào dòng Thánh như phải chờ đợi vì Phật bổ xứ phải có thời gian nghe Phật thuyết pháp (sống với tánh giác) đầy đủ nhân duyên thành Phật mới chứng Niết Bàn, tịch lặng. Cực Lạc chính là phương tiện của đức Như Lai. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hóa hiện vì biết “cảnh giới của ta về các ông không về được” nên mượn cảnh Cực Lạc thế giới có chín bậc, còn Niết Bàn không có bậc nào cả. Nếu ai giác ngộ trở về chánh niệm đều bình đẳng giống nhau cả không hề khác, đều là không, pháp thế gian không quý, không thô, không còn niệm chấp vào sự đúng sai, phải quấy, nên hư, tốt xấu, không còn niệm đúng sai. Thế giới Cực Lạc còn sai biệt bởi danh từ Thanh Văn, Duyên Giác, Bích Chi Phật, La Hán, Bồ Tát, Trời, Người, Phật nên cảnh giới đó còn gọi là phàm Thánh đồng cư. Trí huệ thông thấu đến đâu ta phải biết rõ cảnh giới như thế nào là đã làm chủ được Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, người dẫn dắt chúng sanh phải thông rõ tất cả cảnh giới mới là bậc đạo sư chơn chánh.

Tâm thường bám níu vào sự cảm thọ dễ chịu sanh ưa thích nên Phật biết rõ tâm ý chúng sanh, phương tiện hóa hiện cõi Tây Phương Cực Lạc có lâu đài, lầu các, muốn ăn mặc tùy ý đều có Thất Bảo nguy nga, vì biết tâm ưa thích của chúng sinh gọi là Cực Lạc để phá bỏ sự bực bội ( cực khổ ), tất cả đều phát sinh từ niệm, nhưng đã chánh niệm, chánh định, không còn một niệm nào ưa, thích hay khổ đau là tịch lặng, khi đối với các pháp gọi là Niết Bàn như như tịch tịnh, thường hành động theo ưa thích hay ghét bỏ là do tâm thiếu quân bình. Tổ dạy “bình thường tâm thị đạo” mà ta đã đánh mất sự bình thường, bị niệm thương ghét làm hoảng loạn, chênh nghiên bởi cảm xúc, bị lôi cuống từ vô lượng kiếp làm ta mất chánh niệm, thường sanh niệm ác cảm, ác tà vì si mê sân nộ. Phải hằng kiểm tra các niệm, tất cả các niệm đều do tâm sanh không thật, vạn pháp do tâm sanh, nhất thiết do tâm tạo, Niết Bàn do tâm tạo, địa ngục do tâm sanh. Ta phải sống cùng tánh giác, không bị lôi cuống trong các cảnh giới của sự cảm thọ nào cả. Như cảm xúc thọ vui buồn, thương, ghét, thích ưa tất cả đều là cảm xúc, vì mê lầm thường thọ nhận chấp thật là tôi. Phải tự giác biết rõ thực tế đang tu tâm, không bị ngoại cảnh cuống hút dẫn đi gọi là nghiệp dẫn chúng sanh luân hồi, vì cứ chạy theo niệm niệm từ nơi thọ sanh mà luân chuyển theo cuộc đời là tạp tâm, tâm sân, tâm si, tâm phiền não, mãi sanh tâm vì vô minh ta không hề hay biết. Công phu là tập luyện, không chỉ sáng, chiều hay tối, phải thường công phu trong mọi lúc, mọi nơi, không gián đoạn. Nếu cho là tu chỉ áp dụng vào giờ công phu là ta tự phá vỡ tâm ta, phá vỡ cuộc sống ra từng mảnh, tự phá hoại công trình của chính ta, phải thường xây dựng pháp tu thật kiên cố bằng công phu sống trong chánh niệm, ba đời chư Phật cũng tu như vậy. Thường chánh niệm sẽ chánh định, thường chánh định thì trí huệ càng tăng càng viên mãn. Ta không tu theo phong trào mà tự cho là đủ đó là người phá đạo, làm tiệt giống nòi Phật pháp. Người chuyên tu là mầm mống Phật pháp, đi đứng nằm ngồi đều ở trong chánh niệm, giờ giờ phút phút ở trong chánh niệm, là tứ oai nghi của người tu Phật, đó là niệm của bậc Thánh. Tất cả đối tượng khi tiếp xúc phải với tâm trạng đơn thuần, dù đối tượng có hung dữ, bướng bỉnh hay hiền từ, niệm nơi ta vẫn chơn chánh, không sanh niệm khởi theo hoàn cảnh vô thường, vì tâm vô thường, tứ đại vô thường, ta nên sống trọn vẹn trong tâm tỉnh thức từng giây từng khắc, vừa khởi lên một niệm liền biết niệm đang khởi là vọng tâm thì liền chánh niệm. Vọng niệm tự nhiên đến, tự nhiên đi, nên ta không có ý niệm đuổi đi hay bắt lại vì vốn nó là vô thường sanh diệt. Tự đến rồi tự đi, khổ vui sang giàu, nghèo khó, nóng lạnh, đau nhức, các pháp đều như vậy, phải hằng nhớ chánh niệm, tất cả đều không dính mắc là giải thoát. Sống thuần thục với chánh niệm thành quen tự động nên có khi khởi vọng niệm tự đến tự đi mà người đã thường huân tu không cần dụng công gìn giữ vì đã có cách sống tự nhiên quen với chánh niệm của tâm nên tánh giác tự động khắc phục lấy không cần đến sự quán sát như trước nữa vì đã thuần quen sống với tâm vô ngại, nhẹ nhàng.

Ta nên tập lắng nghe những gì xảy ra trong tâm, trong thân, tự mà sáng suốt với hiện tiền tâm là tâm hiện tại. Có những cảm xúc thọ rất nhẹ nhàng, vi tế êm êm đưa tâm vào trạng thái mơ màng thọ cơn buồn ngũ dẫn dắt ta vào tâm trạng hôn trầm. Nếu sự lắng nghe thâm sâu tịch tĩnh ta sẽ nghe dòng tâm thức tuôn chảy, lúc đầu nghe được tự ngã là tôi muốn, tôi thích, tôi ghét, tôi vui, tôi buồn, tôi không đồng ý nhưng khi đã phát hiện được những ý niệm này mà không để tâm dính mắc sẽ hằng sâu vào định, bắt gặp lằn trí huệ nhẹ nhàng lâng lâng, việc này đòi hỏi phải có sự công phu tu tập của ta thật thâm hậu. Cái tôi chỉ tập hợp qua các yếu tố tình cảm phát sinh niệm sanh diệt thay đổi không ngừng, phải nghe được tự ngã đang muốn gì? Muốn chứng vô ngã thì phải thấy được tự ngã là ngã tham, ngã sân, ngã si, ngã ái, sự ham muốn đòi hỏi khi thấy ngã mới ly được ngã “kiến ngã tức ly ngã”. Đang sân si, đang bực bội, đang buồn vui là đang nuôi dưỡng tự ngã thêm lớn, là nhận giặc làm con. Tâm tĩnh lặng tiêu biểu sự quân bình của tâm ( đạo ), không có tâm niệm chọn lựa phê phán, phân biệt ta không đeo níu cảnh giới nào mà cho là tuyệt đẹp, hay xua đuổi vì ghê sợ, tất cả chỉ là vọng tâm. Khi tỉnh thức tâm sẽ êm dịu, thoải mái, nhẹ nhàng, hòa hợp hoàn toàn trong chánh niệm. Không chánh niệm thì định cũng không hoàn mãn, tất cả đều có trình độ, chánh niệm kiên cố thì định kiên cố, trí huệ cũng kiên cố.

Chánh niệm là biết rõ những gì xảy ra nơi tâm trong hiện tại, bước đầu là sự công phu là chánh niệm là căn bản của bước đầu tu tập, tâm luôn vững chải, không hề lạc một sự tập trung nào về việc kiểm tra hơi thở, định lực phát triển đúng mức phải thật sâu sắc về sự minh sát vì đây là tâm trạng của tuệ được cơ hội phát sanh. Có nhiều phương tiện qua trạng thái khác nhau từ nơi mỗi con người. Trí tuệ từ chánh niệm sanh ra, không từ trạng thái đối tượng đặc biệt nào cả, vì có trạng thái là từ vọng tâm sinh ra. Ta không tìm kiếm đòi hỏi mà tâm nên bình thường giản dị, càng bình thường càng giản dị đó là chơn lý, chẳng có gì đặc biệt, đó chỉ là sự biến chuyển của dòng tâm thức, là đề tài cho ta có cơ hội quan sát, biết được sự vô thường của vạn vật, chỉ như hoa đốm giữa hư không. Công phu là buông bỏ tất cả niệm không còn dính mắc hay nắm bắt nhìn nhận một trạng thái hay hiện tượng nào. Tâm lý của chúng sanh xưa nay thường bám níu, ôm chấp lấy tham vọng mãi giữ gìn thành quen. Nếu nhận biết con người thường biến đổi thì mới đủ khả năng buông xả, không còn niệm nắm bắt, ôm giữ mới thực hiện hòa hợp cùng thực tại, ta là đạo, đạo là ta, không còn chia rẽ.

Ngũ uẩn là vô thường sanh diệt mà ta mãi chấp cho là thật, chết không thật, sống cũng không thật, chỉ nơi dòng tâm thức vô thường, không thật không ngừng biến chuyển có sự sống chết.

Thiền là công phu, tập trung định lực phát triển chánh định sanh trí huệ, phải dụng thời gian lâu từ hoàn cảnh đặc biệt của sự buông xả mới thực hiện thiền minh sát tuệ.

Mọi việc xảy ra trong đời này là nhân của thời quá khứ. Chẳng hạn như nhân là chánh niệm sẽ có kết quả là chánh định, chánh huệ. Khi nhân là chánh niệm thì nghiệp quả chẳng hề xâm nhập vì sự khổ, sự buồn. Ta không niệm đến thì không hề dính vào đau khổ, buồn vui, là không vướng vào nghiệp. Những sự mê lầm nằm sâu trong tìm thức, khi chánh niệm sẽ soi thấu đến những niệm mê lầm chuyển hóa thành sáng suốt đang tìm ẩn trong a-lại-da, nếu biết quán sát sẽ thấy rõ điều này.

Phương pháp tu tập công phu chánh niệm ban đầu sẽ làm ta mất tự nhiên, mất tự do sự thoải mái của phàm tâm, mọi cử động của tâm, thân đều có tánh giác kiểm soát chặt chẽ của sự tĩnh thức.

Sống không chánh niệm là cuộc sống mất tự nhiên, mất tự tại vì tâm bị cai quản vào các cảm thọ của sự vui buồn thương ghét khổ đau, ưa thích, chê chán… tất cả đều lệ thuộc vào hoàn cảnh chung quanh làm khởi động tâm niệm và thân. Người đang chửi mắng ta là đang sử dụng vọng tâm, nếu ta vô minh đuổi theo vọng tâm đó là cộng nghiệp. Cộng niệm từ vọng tâm của đối tượng làm niệm của ta duyên vào sự chửi mắng làm ra vô số niệm, loạn niệm mặc tình ngũ dục sai khiến cả hai đều sa đọa vào thế giới sân si là cảnh giới địa ngục, súc sanh đọa vào ba cõi ác gọi là ác đạo vì mất chánh niệm ngũ dục hoành hành tự tung tự tác thỏa thích là ta đã cộng tác với ma, phải dùng chánh ngữ êm dịu mà sử dụng thì niệm người chửi sẽ dừng trở lại tánh giác cùng hòa nhịp vào chánh niệm nơi tự tánh sáng suốt gọi là giới hòa.

Khi qua một kiếp sống của con người có phải là linh hồn không? Đó là việc xảy ra sự thay đổi của đời người, thân thay đổi, tâm thay đổi đã vô số lần sanh diệt không còn gì giống y như trước, tất cả hoàn toàn là sự biến chuyển vô thường theo niệm, mượn danh từ là linh hồn cũng không chắc chắn ở y một trạng thái nào tồn tại cả, đó chẳng qua là danh từ có từ sự chấp ngã mà có tên tạm gọi đều phát xuất từ vọng niệm xưa nay thể hiện của sự đời đối đãi nơi cuộc đời, chỉ có sự liên hệ giữa niệm trước kế niệm sau chứa đầy trong a-lại-da mà chúng sanh cho đó là linh hồn ( không thật ).

Cầu siêu là khuyên người xả bỏ những niệm quá khứ nên bỏ hết, chỉ còn nhận biết sự thanh tịnh là đã siêu những niệm buồn vui giận hờn trong quá khứ, nếu còn ôm giữ mãi niệm xưa cũ không buông xả thì không thể siêu được ( vượt lên ).

Nếu buông bỏ được niệm quá khứ, hay vẫn còn ôm chấp là kết quả của việc tái sanh luân hồi hay giải thoát. Nếu giữ niệm thiện thì sanh thế giới thiện, giữ niệm ác thì sanh vào thế giới ác, niệm tham thì sanh vào thế giới Ngạ quỷ, phiền não si mê thì vào cầm thú Địa ngục, thanh tịnh an lạc thì vào cõi Cực lạc tĩnh tịch yên lặng, dứt hết các niệm thế gian là Niết bàn, Như lai Tạng tánh, sự thật đây là gieo nhân hiện tại là chánh báo kết quả là y báo không sai. Tất cả đều do tâm niệm, đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì thấy chúng sanh quá nhiều tạp niệm nên dạy phương pháp niệm Phật để hướng về chánh niệm. Không còn nhớ loạn niệm, đa niệm, tạp niệm là đã nương theo niệm quy y giác tức quy y Phật, quy y trở lại tự tánh chính ta ( tự tánh Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn trực vãng Tây phương ). Vì niệm niệm tiếp nối, mãi mê muội nhận đó là ta, làm ngã, làm linh hồn khi bỏ xác. Nếu còn chấp giữ niệm này mà cầu siêu, không buông bỏ lìa niệm, thì không siêu được vì vẫn còn ôm chặt niệm chấp vào pháp cho rằng đây là chồng là con là tài sản là thân nhân yêu ái của tôi … Nếu chưa buông xả niệm vẫn còn là cõi của người, niệm đang chấp giữ thì không siêu được, ta phải sáng tỏ việc này, đây là thọ uẩn, sắc là tứ đại cộng với vạn vật gọi là sắc uẩn, tưởng uẩn, tưởng là không thật. Chánh niệm là đề mục quan trọng, ta phải thấy được những tư tưởng nổi lên, người công phu không thông hiểu sẽ gặp những tư tưởng khởi lên, tư tưởng không từ bên ngoài mà chính từ trong tâm, trong a-lại-da phát sinh, lý vô ngã rất khó biết được, tư tưởng vốn không thật là ta chỉ là tưởng uẩn, từ niệm này kế tiếp niệm kia, chấp vào tư tưởng sanh tâm, khi chánh niệm sẽ biết rõ tư tưởng đang xảy ra niệm đang khởi lên tự biết tư tưởng này tốt xấu phải quấy nên hư hay dở. Kiểm soát tư tưởng đang khởi tự giác vào các suy nghĩ, không chấp cho là thật sẽ thành tựu những điều theo ý muốn cũng tốt, không thành tựu cũng tốt không buồn, không nản chí, không vui mừng đó là chánh tư tưởng, chánh tư duy. Biết niệm sanh diệt là vô thường không tham chấp vào tâm sẽ không thành tự ngã, vẫn suy nghĩ mà không dính mắc ràng buộc vào đề mục của vấn đề. Nếu được thành tựu cũng là niềm vui, đối đãi, bất thành cũng không bức xúc, đau khổ, không mải miết miệt mài theo niệm tưởng tượng, chỉ cần biết hiện tại đang có một tư tưởng đang phát khởi, biết ta đang suy nghĩ nhưng vẫn biết suy nghĩ là tư tưởng không thật, phát hiện suy nghĩ rõ ràng mà vẫn thấy sự phồng xẹp của hơi thở ra vào không gián đoạn, không để mất chánh niệm, không phê bình, không phản ứng, không tự cho suy nghĩ là ta, không có ai cả vì chúng ta lấy sự suy nghĩ chấp ngã cho là ta. Suy nghĩ thật sự chỉ là niệm tưởng tự đến chẳng có sự mời thỉnh kêu gọi từ đâu cả. Nếu có thiền quán thì thấy niệm từ suy nghĩ có mặt không lâu. Nếu kéo dài hơn chỉ vì ta đã gia nhập vào, tự duy trì lấy niệm tưởng tạm có, nó sẽ bày biện cùng nhiều niệm tưởng hằng hà sa số vọng niệm nếu trở lại phồng xẹp của hơi thở thì tư tưởng sẽ biến mất, sẽ phá được vô minh phiền não những cố chấp mê lầm, kiên quyết giữ gìn chánh niệm theo hơi thở phồng xẹp thường giác biết sẽ vô lượng công đức. Xưa nay khi giao tiếp đối xử với nhau vì mê lầm nên chỉ sử dụng bằng tư tưởng quên mất chơn tâm. Nếu trực chỉ chánh niệm thường quán sát hơi thở phồng xẹp, không duyên theo niệm tưởng thì không có nhân tạo nên nghiệp, để làm khổ hay giành giựt đấu tranh với ai, tất cả đã thanh tịnh nên phước họa đều không. Phá tan nghiệp chướng gọi là ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Tưởng là nghĩ nhớ, tượng là tự vẽ ra một hình dáng mơ hồ không thật, phải triệt để ý thức vào tư tưởng vừa mới phát lên tự giác biết thì tư tưởng liền mất dạng, không chi phối quyến rũ được vì đã mất khả năng phát triển. Giác biết được nó, khi khởi niệm buồn phiền não, nếu giác phát hiện sớm thì không phá hoại chánh niệm được. Ta không chướng ngại cho rằng tư tưởng đáng bị xua đuổi nên nhẹ nhàng phát hiện dùng chơn lý soi sáng biết nó đến rồi sẽ đi chỉ là vô thường, là đối tượng của sự công phu không để niệm thù oán nó không dãi đãi ởm ờ mà biết tất cả những gì xảy ra trong hiện tại, không ngăn cản niệm khởi mà để nó tự chấm dứt, cũng không níu kéo, tự đến, tự đi, không bực mình khó chịu, đó chính là những đợt sóng trong tâm vì vạn pháp tự tâm sanh nên sanh tâm độc ác chính ta, sanh hoa sen cũng tại tâm ta sanh ra, tất cả đều ở trong tâm chẳng ở đâu xa mà đến. Nếu trở về sự chơn chánh gọi là chơn tâm thường trú nên minh sát là xác định cẩn thận những gì đang hiện diện nơi tâm ta vì ta cứ mãi :

Loanh quây trong cạm luân hồi

Xoay qua trở lại biết hồi nào ra

Mấy ai suy nghĩ kỹ xa

Rảo chân sấn bước cho qua khoản này

Chán chê mộng cảnh đọa đày

Đưa tay trí huệ tháo dây dục tình

Đoạn trừ cái hoặc vô minh

Tâm chơn trở lại tánh linh đem về

Gieo lan hạt giống bồ đề

Xanh tươi cành lá sum xuê cội tàng.

CLKS

Mọi huyễn cảnh thế gian đều giả tạm, tư tưởng các niệm đều không thật chỉ có tánh giác thường hằng, còn tư tưởng đã qua không thể giữ lại được, có sanh thì có diệt. Nhớ chánh niệm tự có sẵn gọi là thường trú, niệm niệm luôn sanh diệt nên ta phải sống với sự thường còn bất sanh bất diệt. Người phát tâm tu phải nhận biết rằng đã thật sự giải thoát các niệm quán xét tư tưởng đã lìa được hay chưa ? Chánh niệm là thường ở trong tánh giác, phát hiện được tánh giác, phải cảnh giác những tập khí là vọng tưởng từng huân tập thành thói quen khó bỏ, có tư tưởng do sự thêu dệt bởi lầm tưởng có cảnh giới nào khác nên thường bị sa đọa vào các cảnh giới tưởng tượng, ta cần phải biết thật rõ. Nếu tu thiền mà không chánh giác thường lạc vào tam giới, dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Lạc vào các cõi giống như xuất hồn, sẽ lạc lầm bởi tư tưởng gặp Phật Tiên Thánh Thần, đều là tư tưởng không thật cần cảnh giác, không đi vào cõi huyễn ảo mơ hồ là lạc thiền. Cuộc sống đối đãi hằng ngày, phải biết tránh né sự ham thích nghiện ngập của thói quen, cần tránh bạn bè, tránh sự đam mê sắc tài danh thực thùy là ngũ dục của cuộc đời. Sắc là vẻ đẹp ta đừng xem thường mà cần cảnh giác nam và nữ, có cảm thọ do xúc thường len lỏi mà ta không hay biết do mất cảnh giác.

Tiền tài danh vọng phải cảnh giác là sự cám dỗ của cuộc đời.

Thực là ăn uống nếu không hạn chế sự ăn uống sẽ bị hôn trầm là buồn ngủ.

Lúc chưa ngủ vẫn theo dõi hơi thở phồng xẹp giữ liên tục sẽ thành thói quen với sự tĩnh giác. Người tu cần nhất là sống trong chánh niệm và phát huy trí tuệ. Trí tuệ ngay trong chánh niệm là kinh nghiệm tại bản thân để đem ra hướng dẫn cho người khác. Nếu cứ hoang mang vì thất niệm là vào ngay vọng tưởng, vọng niệm. Nếu cứ đi tìm sự hiểu biết đó là vọng không thực tế. Tỉnh giác là cắt đứt mọi vọng tưởng và vọng tâm, cắt bằng chánh niệm phải ở trong chơn giác. Các nhà khoa học cứ vọng tưởng trên mặt trăng, sao hỏa xem có cái gì khác nên tốn biết bao nhiêu công sức và tài sản nhưng Phật đã dạy sắc tướng là không thật, không bền chắc. Xưa đức Phật thành đạo từ chỗ này, Ngài muốn truyền đạt nhưng rất khó vì chúng sanh nghiệp chướng (vọng niệm) quá sâu dày nên Ngài phải dùng phương tiện dạy cách làm phước, bố thí cúng dường, giữ ngũ giới để giữ chánh niệm, khi tâm an lạc là đã cắt đứt được nghiệp chướng( nghiệp chướng là gánh nặng nhiều đời của chúng sinh ), tham sân si, tật đố, ghen hờn, ham muốn vô lượng. Nếu chánh niệm đã đoạn nhất thiết khổ ách, thực tại là đã viễn ly tất cả mọi vọng tưởng sống với tự tánh. Vì mê muội tự chấp vào cuộc đời theo thói quen cứ xoay vòng trong luân hồi tuần tự, mãi chấp rằng con người lúc nhỏ nuôi lớn lên lo gả cưới chồng vợ, sanh con, lo giàu nghèo, chuyền chuyền như vậy đến già chết là hết viễn cảnh đó là vô minh, vô tình trói buộc con người càng chất chồng tăm tối niệm niệm theo cuộc đời đầy tội lỗi vì mãi tranh hơn thua trong ảo mộng.

Thiền minh sát là cắt đứt mọi tư tưởng, mọi vô minh thường múa may dẫn dắt con người là kinh nghiệm tuyệt vời của người chứng ngộ tự tánh. Sự đối đãi cảm xúc thọ khổ vui là viễn cảnh cuộc đời xoay qua trả lại gọi là luân hồi từ vô lượng kiếp, sự phải quấy tình cảm cuộc đời là cõi của lục đạo luân hồi từng lập đi lập lại. Ta thường bị bó buộc vào luật này, luật nọ từ trong tập quán đó là sự chấp chặt gọi là kiến chấp, mở mãi không ra vì hàng rào tư tưởng quá kiên cố, phải cắt đứt nghiệp chướng phiền não dày chặt nhiều đời kiếp, sự luân hồi từ khái niệm cứ lẫn quẩn con người từ tư tưởng bằng những phong tục tập quán nghi thức trong bắt buộc, càng đeo đuổi càng xa tánh giác, càng tiêu hao chánh niệm, càng cản trở việc tu. Thiền minh sát để thấy lại bản tâm vì tất cả chỉ là bóng dáng bên ngoài. Ta bị xiềng xích bằng ý niệm đam mê cuộc đời chỉ vì khái niệm từ thành kiến chứa sẵn trong ta (bản ngã), là sự hiểu biết phàm tục, trở lại chánh niệm không còn pháp nào cả vì pháp còn phải bỏ huống chi là phi pháp dứt hẳn suy tưởng, không còn một bóng dáng trần lao nào vì hoàn toàn chỉ là vọng tưởng vô minh. Giáo pháp là sự trong sáng của người tu, tu không được gì ở thế gian cả mới là chánh niệm. Khi chấp vào tư tưởng tánh giác bị giam nhốt như núi Thiết vi vì không ánh sáng chơn lý nào rọi vào để kêu gọi sự tỉnh thức được đó là pháp chướng từ thành kiến mê lầm, phải tự thấy mà phá bỏ hoàn toàn tất cả mọi khái niệm đều là kết quả của những tư tưởng từ bản ngã mà nên tư tưởng là tưởng uẩn mà ngũ uẩn vốn không ( không thiệt thể). Chánh niệm là tự do ra khỏi sự ràng buộc các tà niệm phải thực sự nhìn vào thực tại xét những gì đang xảy ra tại tâm ta, hiện tiền ta tự biết lấy, không nói chuyện viễn vong cầu xin, đó chỉ là vọng tưởng ở tương lai, các vọng niệm hiện hành sanh diệt chỉ là những sản phẩm của tư tưởng mà có. Vọng tưởng của quá khứ và vọng tâm của tương lai, chỉ là sợi dây xiềng xích hiện tại đầy ấp sai lầm gọi là nặng nghiệp, nặng chướng duyên vì bị đè nặng phiền não vô minh. Sở dĩ nói tự tánh không phân biệt nam nữ vì vẫn ngồi chung mà cõi tâm là giới luật mọi người đều chánh niệm. Không khởi niệm đuổi theo một tư tưởng nào, tâm hoàn toàn trong sạch bình đẳng nên không niệm chấp vào tướng nam nữ hay thương yêu ái dục gì cả, vì tất cả đều ở trong tánh giác tịch lặng ( các pháp đều thanh tịnh ). Tự tánh vốn thanh tịnh giống như làn nước ở mặt biển, vì gió xao động nên mặt nước nổi sóng tùy theo gió thổi mạnh hay yếu mà có từng đợt sóng. Tự tánh vốn sẵn thanh tịnh nhưng khi gặp gió trần cảnh thổi đến làm lay động biển, nổi lên bởi sóng tình ái, sóng danh lợi, sóng sân si, sóng hơn thua, tốt xấu, sóng hận thù, sóng bỏn xẻn, ích kỷ, sóng tự ngã … thổi mạnh biến thành những làn sóng tâm kinh khiếp, khi gió ngừng thì tâm yên lặng bình thường, sóng nổi lên là do duyên hợp. Sóng cũng từ nước gặp duyên hợp mà thành có sóng, các pháp vì gặp duyên nên có sanh diệt cũng từ niệm sanh khởi hóa hiện tùy duyên, hiểu được như vậy thì cuộc sống luôn hằng hữu tánh giác thanh tịnh. Tất cả là diễn ảnh giả tưởng không thật, chỉ tại ta đeo níu mà sanh tâm niệm, tưởng thật tìm cầu trong vọng tưởng, loạn tưởng khổ đau chánh niệm là từ giã những khái niệm về tư tưởng tạo nên. Căn bản tạo nên người cũng từ vọng tưởng, vọng tưởng đè ập trói buộc ta từ vô lượng kiếp làm ta đau khổ. Khi chánh niệm là dứt vọng tưởng nên không có niệm nào, không còn bản ngã, không chấp vào con người là sự giải thoát tuyệt diệu chính tại nơi ta. Khi vừa khởi vọng có nam, có nữ, có giàu, có nghèo, có đẹp, có xấu, có phải, có quấy… còn khái niệm về tự ngã là xiềng xích giữ ta mãi sanh tử luân hồi, ngã là cái gọi là tôi, khởi niệm cũng từ tự ngã. Nếu không có tự ngã là không có chỗ cho niệm khởi tưởng, tự ngã chỉ là ý niệm khởi chấp. Khởi đầu không có gì là ngã, vì dính mắc vào ý niệm quá sâu đậm là sự bảo vệ cái tôi trừu tượng, không thật, không có tự thể vững chắc nào, chỉ chợt hiện theo tư tưởng tạm thời, mà suốt đời ta mãi bị ý niệm chi phối dẫn quanh lục đạo, ta chỉ sống qua thế giới ảo tưởng hình dáng bên ngoài của sự vật.

Có bốn thực tại tuyệt đối là tứ đại, đất, nước, gió, lửa.

Khi cảm thấy đau trong thân là yếu tố của đất, khi đi chân chạm đất cũng thuộc về yếu tố của đất, cảm giác cứng, mềm nới rộng đều thuộc về đất không là của ta.

Lửa là cảm giác nóng lạnh, sự nóng là cảm giác tự nhiên, nóng hay lạnh là do tánh chất của lửa, của tứ đại không gì là của ta.

Gió là sự chuyển động, sự di chuyển các sự vật, như bàn chân ta di chuyển cũng có gió, sự di chuyển tứ đại do duyên hòa hợp, chẳng có cái nào là tôi.

Nước tiêu biểu tính chất kết hợp giữ những sự vật được liền với nhau.

Cùng yếu tố phụ thuộc là màu sắc, mùi, vị, bổ dưỡng tứ đại.

Dù có xác thân hiện tại nơi đây nhưng đừng lầm nhận đó là tôi, khi vô tình bị ai đánh trúng ta, nghĩ rằng vật đang chạm vào đất thì liền chánh niệm vì không chấp vào tự ngã. Tự ngã luôn che lấp làm mờ lý trí con người. Tu là vô ngã, thân chỉ là những yếu tố kết hợp mà nên, từ duyên hay vọng mà thành, thật sự không có thân chắc chắn. Sự thấy vật, thấy người là tự nhiên của tánh thấy, khởi niệm biết tên vật, tên người là khái niệm trên danh từ là giả danh, tạm đặt, tạm gọi mà có không thật, tất cả đều do danh từ đặt ra.

Khi thiền chánh đẳng chánh giác thân biến mất, nếu quán xét minh sát thực tế không gì là ta là của ta cả nên không còn khái niệm thành kiến tự ngã là tôi nữa, rất thong dong tự tại chẳng gì là tôi.

Lộ trình tâm luân chuyển biến không gì là bản ngã, ý niệm thì luôn giữ mà thực tại lại quên lãng là mê lầm lớn của con người. Thân mỗi lúc mỗi đổi khác, các tế bào sanh diệt liên tục thay đổi, vô thường không gì là của ta cả. Tâm là khả năng hiểu biết giữa mình và đối tượng nào khác. Tâm quan sát được tất cả sự diễn biến thay đổi tùy theo hoàn cảnh, không tâm thức nào hiện diện từ đầu đến cuối, chỉ là sự diễn biến thay đổi của dòng thức tuôn chảy. Tham sân si là ba tâm hành căn bản thường xảy ra là căn bản khổ đau. Không có người tham mà chỉ có tâm niệm của sự tham, niệm sân, niệm não loạn, không đổ thừa con người mà chính là mà do chính tâm khởi lên. Nếu có niệm sáng suốt, nhắc nhở thì niệm tham sẽ tự sám hối biến mất, tâm si làm mờ mịt không thấy được những gì xảy ra trong hiện tại. Tâm từ bi trí tuệ hiển bày, không vướng mắc là từ bi, không mê mờ là trí tuệ. Điều này không tìm hay ai cho mà có, không thể học mà có được từ bi trí tuệ. Tâm xả là rộng lượng, tâm từ bi là lòng thương yêu người khác, sự tỉnh thức hằng hữu có khả năng nhìn rõ mọi sự vật.

Sau khi công phu chánh niệm tâm an định, trí huệ sáng rất rõ không gì là của ta cả. Nếu quá khứ khởi lên là vọng tưởng, tham muốn xác định rõ là vọng tưởng, biết thật chính xác vọng tưởng là gì thì dễ dàng sống với chánh giác thành Phật quả.

Vô thường là không bền, vô ngã là không ai, không có gì của ai cả. Các pháp hiện có tướng là do duyên tập hợp, không gì là ngã, nên Phật dạy tất cả thế gian đều vô ngã, chỉ có tâm từ bi, tâm trí tuệ đức Như lai không hình tướng mới là Như lai, nếu còn chấp vào hình tướng cho là Như Lai thì Như Lai đó vẫn còn bị sanh diệt.

Là con người biết sống với đức tánh vô ngã thì cũng không bị sanh diệt vì chỉ sống với trí tuệ sáng suốt chánh đẳng chánh giác, tất cả chư Phật đều có tâm này. Nếu nhận định những gì cho là tôi, của tôi là tà kiến. Tà kiến là hiểu biết sai lầm, sự thay đổi giận hờn, buồn, ghét, mập, ốm, sang hèn … không là tôi được hoàn toàn từ tâm thức mà sinh khởi vô ngã tức Niết Bàn. Sống được với chánh niệm một phút là ở Niết Bàn một phút, còn tư tưởng si mê bao nhiêu thì sa đọa trầm luân bấy nhiêu.

Thiền minh sát chánh niệm là đi vào sự thật, phải tự thấy tự biết chơn chánh, vậy ai đang giữ chánh niệm? Là sự hiện diện được giây phút hiện tại, tự giác tự sáng suốt như thật, bình an, biết được sự thay đổi của các tâm hành, không chấp vào tự ngã.

Niết Bàn là danh tự, là kinh nghiệm của người ra khỏi mọi xiềng xích vô minh, ra khỏi hang tối, sự tự tại, ra khỏi sự trói buộc của thân và tâm, trạng thái của người đầy đủ kinh nghiệm không còn ở trong khái niệm kiến chấp.

Tất cả kinh điển của đức Phật chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, chỉ thế giới của loài người, loài vật, ngạ quỷ, súc sanh và thế giới của Niết bàn. Muốn nói thế giới của bậc giác ngộ phải đi vào thế giới giác ngộ. Nếu chưa giác ngộ mà dạy người là nói dối không phải như thật, phải vào con đường này mới là người nói thật, nói thật về chứng ngộ, nói thật về giải thoát. Nếu chưa đi được đường này đừng nên nói vì chưa thấy được sự thật của trí tuệ, sự diễn tả chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng mà kinh nghiệm về thiền quán hiện thực đều thoát ra ngoài văn tự. Thiền quán trong chánh niệm quen dần sẽ làm yếu đi sợi dây vô minh thường xiềng xích làm ta đau khổ, sẽ yếu dần tham, sân, si, phiền não không còn tồn tại, vướng mắc sẽ tự tại dưới ánh mặt trời trí tuệ tự do và giải thoát an lạc. Nếu không giải thoát buông xả kiến thức, đường lối mê lầm tập quán cũ thì vào tu thiền sẽ bị vướng kẹt tạp niệm của tập khí còn lưu trữ trong A-lại-da (vô minh ) không thể trở về chánh niệm vì các loạn niệm đang hiện hành bởi tư tưởng hằng huân tập phải buông bỏ, trước khi ngồi tu thiền không còn ôm nắm ảo tưởng của cuộc đời.

Sự thật của cuộc đời là không có ngã nào chơn thật, chỉ có ngũ uẩn hòa hợp hiện tại có tâm hiện tiền. Đến giờ phút cận tử nghiệp tâm hiện tiền sẽ dẫn dắt ta đi, nên tâm hiện tiền phải thường giác (Phật) để không bị lầm đường. Có ba tâm hiện tiền thường xảy ra căn bản là tham, sân, si, đó là hiện tiền tâm chớ không là ngã của ai cả. Không có ngã nào chịu trách nhiệm khi tâm hiện tiền phát sinh, phải biết rõ là không có ngã. Ba tâm hành căn bản là cội gốc của khổ đau. Khi công phu thiền quán hơi thở phồng xẹp, nếu ta bắt gặp tâm hiện tiền khởi lên, niệm tham hay bám víu tiếc nuối ôm chấp bảo vệ giữ gìn, đó chỉ là tâm niệm vào tham chớ không là của ai cả. Tâm tham đang hiện hành, nhìn có tướng cho là có người thật ra người vật đều mượn tứ đại do tư tưởng của niệm thiện ác mà thành tựu có người, có vật, tùy nghiệp của tâm niệm mà hiện tướng. Khi tứ đại phân ly chỉ còn tâm hiện hành gọi là nghiệp dẫn, tham tâm thì bám níu, đeo đuổi giữ gìn bảo thủ đó là nghiệp của tâm tham.

Kế là sân, sân là thù ghét chối bỏ đối tượng, bực bội, lúc đối diện với hoàn cảnh gọi là sân tâm. Tâm là văn tự do vô minh kết cấu mà có danh từ. Người không thấy tâm hiện tiền đang hiện hành, không sáng suốt được trong chánh niệm, dù học bao nhiêu kinh điển cũng không an lạc được. Công phu minh sát tuệ là sở hành, phải thực tập tu thực tế chứng ngộ được tự tâm, pháp này chính ở tự tâm, vì mãi ôm kiến chấp, ôm sở tu bảo thủ của mình, dùng sự hiểu biết đem áp dụng pha trộn sẽ bị cản trở, giống như chưa trọn lòng tin tự chối bỏ pháp tu này, pháp này không dùng văn tự chỉ đem sự tu mà chỉ dạy thực tập. Khi sân tâm nổi lên thì bực mình giận dữ, bất an cho cả ta và đối tượng. Những tâm hiện hành không phát hiện được tâm đang bị khuấy động mà không giác biết gọi là si tâm.

Sau khi công phu tu tập mà hiện hành tâm thường chánh niệm, phồng xẹp đều biết rõ từ vi tế rõ ràng. Bước bước biết rõ, nghe nghe biết rõ, thấy thấy biết rõ, ngửi ngửi biết rõ, cảm giác nóng lạnh biết rõ, đó là đã trở về sự chứng ngộ được ba tâm là xả, xả tất cả không còn giữ một pháp nào, dù đó là pháp môn tu. Đây là cửa của bậc Thánh Nhân nên không thể đem phàm tâm vào mà chứng ngộ được. Tâm xả là tâm thương yêu do chứng ngộ phát sanh. Tự nhiên trí là trí vô sư, trí không ai dạy. Chánh niệm cũng là một tâm hành, bắt đầu vào đạo tràng tất cả tâm niệm về nghĩ nhớ đều bỏ ra bên ngoài hết không còn một vật “Bổn lai vô nhứt vật, hà xứ nhạ trần ai”, một vật cũng không đem vào được. Nhiệm vụ của chánh niệm là nhận diện đối tượng, ý thức được giây phút hiện tại, nếu kiểm soát phồng xẹp không rõ ràng sẽ buồn ngủ vì hôn trầm.

Tâm tham đắm và si mê là hai nguyên nhân chính mãi giữ ta trong sanh tử luân hồi từ vô lượng kiếp. Lúc sắp chết thì hiện tiền tâm hiện hành, nếu tham đắm vì luyến tiếc con cái, nhà cửa nên khuyên họ phải xả bỏ tất cả, kể cả người thân cũng khuyên họ xả bỏ, phải giác ngộ tại tâm. Chính những tâm hành kéo ta vào sanh tử luân hồi từ vô lượng kiếp khi phát hiện sân tâm, si tâm, đừng trợ duyên cho nó, chỉ cần biết sân đang nổi lên, si đang nổi lên, tham đắm đang nổi lên ta phải biết. Hằng ngày ta phải huân tập ngay trong đời sống nếu còn dung dưỡng vọng tâm mà đợi lúc tu thiền mới tìm chánh niệm đó chỉ là sự giãi đãi, phải thường hành, phải tự giác, hằng ngày thường đối diện với hiện tiền tâm nên cần xét rõ ràng có còn đắm nhiễm không? Con đường tỉnh thức chánh niệm là dẹp tham, sân, si, tất cả đều là kinh nghiệm Thánh giáo, là kinh nghiệm bậc Thánh.

Cảm xúc là những tâm hành khác nhau, thương yêu, ghen ghét, vui buồn đều là những tâm hành hiện hữu không là của ai, không ai thương yêu, ghét, giận chỉ do tâm hiện hành thọ cảm xúc mà sanh.

Có những điều kiện phát sanh chánh niệm, trí tuệ nhận thức hiện trạng sự thật, thấy được con đường giải thoát, sự tinh tấn là điều kiện phát sinh chánh niệm. Nếu vào đạo tràng không biết tâm hiện hành, không tìm con đường giải thoát, không chịu vượt qua khó khăn, không cố gắng là không có điều kiện phát sinh chánh niệm. Nếu ở đạo tràng mà tâm hiện hành khởi niệm về danh lợi tiền bạc, được sự linh ứng thì không bao giờ chánh niệm. Đến đạo tràng Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông hay bất cứ pháp môn nào cũng phải có tâm hướng về sự giải thoát là đỉnh cao của trí tuệ, là mục đích của sự tu hành. Tâm hành tinh tấn, cố gắng vượt qua, đối với hành giả lúc nào cũng thường trú là phát triển được đạo tràng, không do sự sang giàu nghèo hèn hay danh vị mà cần những tâm hành tinh tấn kiên quyết Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, chánh định trí huệ sẽ phát huy sáng suốt. Biết rành các pháp thông thấy hết các cõi trong tâm, hiểu rõ mười phương quốc độ, viễn ly vọng tưởng giác chúng hữu tình mới tròn đầy công đức là hạnh Bồ Tát đạo, biết sống với chơn lý cứu độ chúng sanh thường vào ra mười phương cõi nước cứu vớt muôn loài biết rõ chánh niệm.

Trong vô lượng kiếp và mãi mãi về sau ta sống bằng gì, đây là điều cần phải biết. Ta không tính toán tìm hiểu sự chính xác rõ ràng phải chứng ngộ, không lệ thuộc vào danh từ phẩm vị nào cả, phải biết tại nơi ta niệm là nghĩ nhớ, tu tại con người là sự thật, như nhớ đến quê hương, nhớ bạn bè, nhớ vật chất, nhớ đến người thân, nhớ sự buồn vui, tất cả đều là nghĩ nhớ, đó là những ý niệm trong đời sống mà thường gọi đó là niệm. Người tu cần nên sáng suốt dù tu niệm Phật hay bất cứ pháp môn nào cũng chú ý đến điều này, tu ngay các niệm phải được nhất niệm trực tiếp tại đây, trong đầu óc tư tưởng ta, luôn có những điều nghĩ nhớ mà sanh ra niệm. Thiền quán là trực tiếp quán sát sự nghĩ nhớ, luôn quán sát ta đang nghĩ gì ? Quán sát sự diễn biến hiện tiền tại tâm đang là gì ? Đó là hiện tiền tâm đang hiện hành, đang khởi hành động trong tư tưởng. Tội phước, phải quấy, đúng sai đều từ tư tưởng nghĩ nhớ phát sinh là thực tại niệm đang hiện hành, là sự diễn biến của tâm thức, ta không tìm đạo ở đâu xa. Nếu tu Tịnh Độ mãi đi tìm thế giới Cực lạc bằng tưởng tượng, bằng vọng tưởng mơ hồ là việc hoàn toàn không thực tế. Nếu không đủ duyên thì phải cách xa mười muôn ức cõi Phật khó mà giác ngộ được. Đức Phật tạm mượn con số của thời gian trừu tượng rất lớn không thể biết được, nếu giác ngộ rồi chỉ như trở bàn tay. Ta không tìm giáo lý của Đức Phật tận nơi xa xôi mà hãy tìm ngay nơi niệm khởi của ta, ta nên tạm kết luận rằng thành Phật, thành Thánh, thành Nhân, A-tu-la, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục, Người, thiện ác đều do nơi niệm mà có, phải hiểu biết điều này, khi phát hiện niệm khởi mới có đủ khả năng chuyển hóa được tâm, khi đã chuyển hóa được là giác ngộ. Nếu đang sa ngã vào thế giới sa đọa, vào tội lỗi mà không thấy được niệm đang hiện hành để tự chuyển hóa, không thể đến bất cứ nơi nào hay cầu xin ai chuyển đổi được mà chính tự nơi ta sáng suốt nhận xét tại tâm, tự sửa đổi niệm đang hiện hành, cương quyết không tái phạm gọi là thực tướng sám hối. Nếu cứ theo hình thức nào ngoài tâm niệm đều không có kết quả tu hành chơn chánh, phải có duyên gặp Thiện Tri Thức chỉ rành giác ngộ tự mà chuyển hóa nên địa ngục ở tại tâm, nếu không biết chuyển đổi tâm niệm thì không thể xa lìa được tội lỗi. Tất cả đều ở tâm niệm mà ra, biết tự chuyển hóa liền có Niết bàn tại tâm. Kinh dạy chơn lý Phật không ở xa chỉ ở tại lòng ta, tu học phải thấy thật kỹ đừng bỏ phí thời gian vô ích, một pháp vốn không hai. Phật dạy tất cả Thiên hà đại địa, người vật thay đổi chuyển hóa đều do tâm niệm chẳng ở đâu mà có cả, sanh Phàm Thánh phước tội đều do ở tâm niệm không sai, nhất thiết do tâm tạo, vạn pháp tự tâm sanh. Ta tu không cầu Tiên, Thánh, Quỷ Thần, không cầu Bồ Tát độ ta mà tự ta phải độ ta, gọi là tự độ. Không ai dẫn ta đi vào địa ngục, Bồ Tát cũng không dẫn ta vào Niết Bàn mà chính tự tâm niệm ta sinh khởi sanh đau khổ hay an lạc mà thôi. Tự nơi sáng suốt từ trí tuệ dẫn ta hay niệm vô minh, phiền não, tham sân si dẫn ta vào các cõi không sai, kinh Kim Cang dạy Tam tâm Tứ tướng.

Tam tâm là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai. Tâm tương lai nghĩ ta sẽ thành gì ? Có được sung sướng do phước báu hay đọa đày đau khổ đó là niệm nghĩ nhớ đến ba thời. Phật dạy quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, vì trong vô lượng kiếp quá khứ ta mãi nghĩ tưởng nên thường có mặt ở thế gian, nhưng sự có mặt không tồn tại vì các pháp đều sanh diệt diệt sanh, tư tưởng này vừa khởi lên, hạ xuống rồi tư tưởng khác khởi lên tiếp tiếp nên đời đời kiếp kiếp là sự sanh diệt, không tư tưởng nào thật cả, đó là các tư tưởng luân hồi tạo nghiệp vô thường không gián đoạn. Những gì thỏa thích đã qua ta muốn giữ lại chắc chắn là không được vì các pháp vốn như huyễn, vô thường không thật, không thể tiếc nuối mà nghĩ nhớ. Hiện tại cũng không nghĩ nhớ, tương lai không mong ước, đòi hỏi những gì chưa đến vì đó chỉ là vọng tưởng mơ hồ, huyễn hoặc.

Hiện tại cũng không chắc như nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, tài sản, vợ chồng, cha mẹ, người thân đều không bền, không chắc, chỉ là duyên hợp tạm gặp gỡ mà thôi, luôn luôn đổi thay theo từng tâm niệm. Phật dạy giới là con người, giới là chư Thiên, giới là ác quỷ, nếu con người không giữ được năm giới khi thối thất sẽ bị sa đọa vào cõi thấp hèn của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tất cả đều do pháp mà chuyển hóa, con người chỉ là tứ đại không chuyển hóa được, chỉ chuyển hóa bằng tâm niệm khi có niệm không sát sanh, gian dối, tà dâm, uống rượu là giới của con người. Nếu đổi tâm niệm phạm giới sẽ bị sa đọa theo niệm thấp hèn, chỉ đổi bằng tâm niệm, phải giữ vững tâm niệm sáng suốt để đi vào con đường tốt đẹp gọi là chánh niệm hay là Thánh niệm. Nếu còn niệm điên đảo, lăng xăng là phàm niệm, là niệm vào cõi dục giới, niệm ghét, niệm buồn, niệm giận, niệm tham muốn v.v… tranh đấu đọa vào tội lỗi là loạn niệm. Bậc giác thường giữ gìn niệm không thay đổi gọi là Thánh niệm. Vậy ba thời ta không nghĩ về quá khứ đã qua chỉ cần buông xả niệm thì liền giác, phải tập bỏ hết những gì thuộc về quá khứ không khởi niệm tiếc nuối, đừng nên hy vọng trở lại mà nên sống với tâm hiện tiền phải lìa tam tâm. Hiện tại cũng không chơn thật vì không mang giữ tâm hiện tại mãi được nên không là chơn thật. Tương lai chưa đến, phải dọn tâm bằng cách xả bỏ cho sạch sẽ chỉ còn sống với sự sáng suốt của hiện tiền tâm. Hiện biết tâm đang chơn chánh hiện tại cũng là nhân của tương lai. Nếu có nhân hiện tại sẽ có quả ở tương lai. Hiện tại nhân chánh niệm thì tương lai mãi mãi cũng là chánh niệm không sai khác. Nếu ta biết do nhân vô minh sinh ra niệm phiền não thì một lòng quyết không sinh khởi lại niệm phiền não nữa nên các niệm mê lầm đã vãng sanh, siêu sanh Tịnh độ, độ nhất thiết khổ. Giữ niệm chơn chánh đời đời kiếp kiếp nên đời đời kiếp kiếp là bậc Chánh đẳng Chánh giác không còn sa đọa. Chúng sanh vì thay đổi niệm liên tục nên lúc thì theo niệm đọa vào cõi này vào cõi khác tùy theo niệm mà đọa lạc gọi là nghiệp dẫn chúng sanh luân hồi trong lục đạo. Phải biết rõ các niệm thì công phu mới an ổn chánh niệm được, không để tâm hiện tiền chuyển đổi lung tung làm mất chánh niệm. Nếu đã thấy tánh trước sau cũng giác ngộ, người thấy tánh là đã giác biết phải sống ra sao ? Bậc Thánh sống với niệm chơn chánh, phàm nhơn sống bằng niệm duyên theo hoàn cảnh vật chất giàu sang, danh lợi danh vị… không biết sống bằng tánh giác. Niệm chơn chánh chính ta, tánh giác cùng ta đã đời đời kiếp kiếp chỉ một tánh giác này mà thôi. Vì mãi theo danh lợi địa vị chức quyền mà quên bỏ tánh giác, sự suy nghĩ tính toán trừu tượng không là của ta, không bỏ chánh theo tà bỏ Phật theo ma là chánh giác.

Phải lìa tứ tướng là tướng người, nhìn vào thân tứ đại cho là tướng của ta, ta chấp vào có tướng nam tướng nữ, ta đẹp, ta sang cho là ta, là chấp tướng nhơn, tướng ngã, chấp vào tập thể nhiều người là tướng chúng sanh. Những gì thọ nhận trong cuộc đời là thọ giả, tứ tướng đều không chơn thật, con người cũng không thật, chỉ do tâm niệm từ đời trước đã giữ tròn năm giới nên đời này có thân người. Nếu giới khiếm khuyết sẽ đọa vào loài khác, mang thân khác tùy nghiệp của niệm khởi mà thay đổi, tất cả đều do tâm niệm mà thành tựu tướng. Giữ tròn năm giới, mượn tứ đại thành tựu con người, muôn pháp thành tựu đều từ ở tâm niệm. Thọ nghiệp chánh tà cũng do tâm niệm mà sinh khởi như thọ nghiệp trộm cắp là tà niệm do tánh tham lam ham muốn mà có nghiệp. Nếu có người khuyên lơn răn đe họ vẫn giữ nguyên niệm trộm cắp không sửa đổi, giữ chặt niệm trong ác đạo không ra khỏi thập ác tất cả đều từ tâm niệm sinh ra. Con người chỉ là tứ đại, là dụng cụ của tâm hiện hành, thọ nhận đời sống đều từ tâm niệm sanh ra tất cả. Thế giới biến đổi sửa sang đổi khác cũng từ tâm niệm sinh ra, hoàn cảnh gia đình cũng do tâm niệm sinh ra. Người tu khi biết niệm khởi sai trái, sáng suốt không chấp nhận duyên theo gọi là tỉnh thức. Nếu tâm niệm xấu xa độc ác được cải hóa là ta đã giác ngộ xây dựng được con người mới, biết sống với tâm niệm thiện lành đã tạo phước báu hiện tại là quả an lạc tương lai. Khi bố thí cúng dường làm bất cứ điều gì nên quán sát tâm niệm hiện tiền biết đang niệm gì ? Phải quan trọng nơi tâm niệm dù đem của cải tài sản ra làm điều thiện nhưng tâm niệm mới là cần thiết cho việc làm hiện thời. Nếu tâm niệm còn tham cầu, đòi hỏi nơi việc làm là niệm vào nghiệp xấu nên lộ trình của nghiệp sẽ dẫn ta vào cõi mà chính ta đang niệm tương ưng theo hành động. Phải sử dụng niệm thanh tịnh, thiện lành, tài vật chỉ là vật vô tri, là phương tiện giúp ta xả bỏ tánh tham, bỏn xẻn hầu thành tựu tâm hạnh vị tha cao thượng. Ta không ỷ lại vào vật vô tri sẽ đem lại phước báu mà nên xét kỹ niệm hiện tiền khi hành động có còn đòi hỏi tham cầu điều gì ở lục đạo hay không? Nếu xét thấy niệm hiện tiền là chơn chánh từ bi hỷ xả thì mới thành tựu được pháp chơn thật là chánh niệm hay niệm của bậc Thánh.

Con người không thật thường còn, thế giới không đứng yên bền vững, ở một hoàn cảnh nhất định, luôn biến đổi, tâm niệm sanh diệt tùy duyên, chỉ có chánh giác, chánh niệm là an ổn, “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, không trụ vào đâu cả, phải thường ở trong chánh niệm, không ôm chấp việc nào cho là thật cả.

Khi tụng kinh phải biết ta đang có tâm niệm gì? Lần chuỗi với tâm niệm gì? Ngồi thiền với tâm niệm gì? Khi niệm Phật coi lại có phải là niệm chuyên nhất với tâm là Phật hay không? Hay còn miệng niệm mà tâm nhớ đến việc khác, có còn miên man tư tưởng niệm nhớ vào lục đạo hay không? Nếu không thấy tâm niệm là đang hành động với sự vô ích, tu không có kết quả tốt đẹp, vì Ngũ Tổ nói “Nếu người nào tu không thấy tâm niệm, dù gia công tu hành cũng vô ích mà thôi”. Tâm niệm là mấu chốt của con người, của thế giới Cực Lạc, địa ngục cũng chỉ tại tâm niệm.

Tâm niệm không chỉ được, nhưng khi đã xa lìa không còn nghĩ nhớ đến phiền não vô minh, giữ được chánh niệm chỉ tự ta biết lấy không chỉ được cho ai “Niết Bàn tự tâm sanh”.

Quán xét là hiểu biết rất quan trọng vì cứ mãi lang thang trong cạm luân hồi, xoay vòng khắp các cõi, khắp thế giới mười phương chỉ do ở tâm niệm, nhận biết rằng sau khi bỏ xác thân sẽ về đâu? Ta phải thấu suốt điều này, tất cả đều theo tâm niệm gọi là nghiệp dẫn, niệm gì thì nghiệp đó, quả báo này sẽ dẫn ta về cõi chính ta niệm nhớ nhân quả rõ ràng. Tâm niệm sẽ dẫn ta vào các cõi, nếu không khởi niệm giống như Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, không niệm người thì không vào lục đạo, chỉ có trí huệ sáng suốt gọi là bậc Chánh đẳng Chánh giác, thường phải giữ chánh niệm sống với tánh giác đã giác là Phật.

Khi đức Phật truyền tâm niệm cho ngài Ca Diếp, Ngài Ca Diếp biết tất cả pháp đều xuất phát từ tâm niệm nên không dùng tư tưởng suy nghĩ theo hoàn cảnh theo vật chất theo vật bên ngoài mà chỉ mỉm cười biểu lộ tâm niệm của chính con đối trước Phật là đã đầy đủ chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm vô tướng nhưng thật tướng không bày vẻ phô trương.

Đời sống chúng sanh chấp vào sự có, không, tất cả đều từ tâm niệm. Nếu không có niệm sanh khởi hoàn toàn đều không, gọi là quán không. Mọi vật có mặt đều từ tâm niệm, nhà cửa, chức quyền, danh vị, phải quấy, được thua, bực bội, hạnh phúc, bất bình, yêu ái, tạo con cái đều từ tâm niệm sinh khởi. Sự yêu thương nơi niệm tạo ra mà có. Lúc chán ghét, lìa bỏ, thành không đều từ niệm mà sinh có niệm bất mãn, chán chường, nên lìa bỏ. Người tu hành bỏ tất cả gia đình, tài sản, chức quyền, người thân, quyết chí tu hành giải thoát đều từ tâm niệm mà nên, đạo chẳng ở đâu xa, chính tại tâm niệm ta. Nếu còn niệm quấy ác là còn đọa vào địa ngục. Niệm đem lợi ích cho mọi người, không màng danh lợi là Bồ tát. Niệm thương yêu dùng trí huệ dạy dỗ chúng sanh, lòng từ bi độ khắp muôn loài là Phật phát xuất từ niệm giác. Ta phải hằng kiểm soát tâm để xây dựng tâm niệm chơn chánh, quán sát rõ ràng tâm niệm đang hiện hành mà ta đang sử dụng, chắc chắn sẽ biết sau khi bỏ xác thân tứ đại sẽ đi về đâu, về cõi nào, rất thực tế. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca dạy khắp chúng sanh muốn được an lạc hãy nhất tâm niệm nhớ lại tánh giác là niệm nhớ lại tự tánh Di Đà ngay chính ở niệm hiện tiền của con người. Vô biệt niệm là trực chỉ ngay chánh niệm, không còn xao lãng luyến tiếc niệm về quá khứ, hiện tại, tương lai, không tư tưởng nghĩ nhớ, cầu khẩn, van xin vào quyền lực nào mà thấy ngay tánh giác là tự tánh ngay ở con người, là niệm tự giác tức là nhờ pháp niệm Phật nương vào đó mà trở lại niệm giác chính bản tánh của ta, nhập vào bản giác thanh tịnh gọi là tự tánh Di Đà. Nhờ sống được với niệm giác nên tâm không còn điên đảo chư duyên, cũng không luyến tiếc ( niệm ) chuyện tình thế gian, chóng tiêu dứt mối oan khiên, hưởng thụ thanh nhàn, cõi thọ vĩnh miên, lúc bấy giờ ta đã thật sự biết tâm niệm của chính ta, đã tự quyết định được từ đâu mà thành tựu các cõi chơn thật rõ ràng.

Tâm niệm không bền chắc vốn vô thường, ta phải quyết định trở lại xây dựng tâm niệm chơn chánh không chạy theo sự vô thường biến đổi. Ở thế gian nhà cửa được xây dựng theo từng kiểu khác nhau cũng do ý niệm mà có, tùy theo ý muốn gọi là tùy ý niệm tạo ra, nhưng không vững chắc. Vô ngã là không thật vì lúc chưa có gì đến khi tạo thành bào thai, rồi sanh ra còn bé đến trưởng thành rồi già, rồi bệnh, rồi chết không ở một vị trí nhất định nào, luôn sanh diệt thay đổi, biến dạng từng sát na, không trụ yên ở một vị trí chắc chắn nào nên không có ngã nào, vốn không thật thể. Vì vọng chấp mê lầm ta cứ tưởng tượng là thật thể, ta không có thật, không ai có thể quyết định ta sẽ sống được bao lâu, bao nhiêu tuổi gọi là quán thọ giả, sự thọ nhận của ta không bền chắc.

Hiểu đến đây ta đã biết cách tu thiền, biết cách niệm Phật vì đã biết canh giữ niệm để trở lại niệm chơn chánh, không còn tư tưởng theo các niệm vi tế mộng mơ, trừu tượng.

Chánh niệm là hiểu biết chơn chánh, tư duy chơn chánh, không nghĩ lung tung niệm theo thế gian vì tất cả đều do tâm niệm, không mộng tưởng nghĩ nhớ vẩn vơ, mộng mị. Vọng tưởng là luôn nghĩ nhớ, tâm không an ổn vì hoang tưởng, niệm nhớ điều không thật, niệm tin tưởng mù quáng vào các tập tục vì mê tín, gìn giữ không để tâm niệm hiện hành dong ruỗi vào lục đạo là sáu nẻo luân hồi, không niệm vào ba đường ác là không đọa vào tam ác đạo.

Người tu học phải thường tẩm ướp bằng giáo pháp của chư Phật không ngừng nghỉ, thường niệm pháp bảo hằng ngày vì lâu nay tâm hồn lúc nào cũng trụ vào sa đọa vẫn đục từ vô lượng kiếp, phải thường nghĩ nhớ giáo lý Phật mới nhuần gội tạo sự trong sạch cho tâm hồn ngộ nhập được kinh tạng trí huệ như hải. Thiền là kiểm soát tâm niệm sinh khởi, biết rõ niệm khởi nhanh lẹ ứng phó trực chỉ tại tâm, nhận rõ ràng niệm hiện tiền đang sanh vào lục đạo lập tức giáo hóa trở lại sự trong sạch chiếu soi vào từng niệm, từng hành động, biết các pháp là vô thường như huyễn, thật chú ý để không thất niệm, theo dõi hơi thở để biết từng trạng thái của thân tâm, không để danh từ trói buộc, biết đã lìa ngã, lìa chúng sinh, lìa thọ giả, phải chú ý vào tâm thật rõ điều này. Người tu mà không giáo lý sẽ không giữ được tánh giác, đi đứng nằm ngồi đều nghĩ nhớ đến giáo lý. Vậy giáo lý là gì ? Chính là pháp thân của chư Phật. Là đệ tử Phật mà không sống được với chơn lý vì mãi mê lầm chạy đuổi theo ma ngũ dục, tài sắc, danh, thực, thùy.

Kinh hành phải theo dõi liên tục mọi hành động từng bước đi luôn dùng tánh giác chiếu soi biết rõ sự biến chuyển không ngừng của tâm niệm, không trụ chấp vào danh từ, chỉ chuyên nhất tâm vào sự chuyển động của từng bước chân. Ngồi công phu tĩnh tọa mượn sự hít thở ra vào làm chủ lực để giữ chánh niệm, biết có hơi từ mũi hít vào và thở ra theo sự phồng xẹp nhưng tuyệt đối không nhẩm đọc danh từ phồng xẹp, chỉ lắng nghe biết sự ra vào của hơi thở, chú ý tâm nương theo tránh thất niệm. Các niệm thường mông lung ngoài hư không, chớ không ở trong lòng ta, quán vào phồng xẹp, theo dõi từng trạng thái của hơi thở vẫn biết đang thở ra thở vô, khi đã thuần thục cũng bỏ luôn sự theo dõi từng bước chân và bỏ luôn quán hơi thở, không bị trói buộc vào vật gì cả, chỉ thấy sự hiện hành từng trạng thái của hơi thở vẫn biết đang thở ra thở vô, chỉ thấy sự hiện hành từng tâm sở, phải lìa ngã, lìa chúng sanh, lìa luôn cả pháp, cần biết rõ điều này.

Người tu phải thông suốt giáo lý vì giáo lý là pháp thân của Phật, người tu học sống được với giáo lý, giáo lý là pháp thân. Nếu không sống được với điều này mãi say sưa theo sắc tài danh lợi là ngũ dục, mượn pháp thế gian làm thân là đọa trần, đọa vào lục đạo phàm phu.

Chân chánh là vẻ đẹp của người tu. Ăn trong chánh niệm, chú tâm niệm A Di Đà Phật ba lần trước khi ăn cũng là nhắc ta thường nhớ tánh Phật. Rất nhiều diễn biến xảy ra trong khi ăn, nếu ăn mà còn khởi niệm khen chê phân biệt là phạm giới tham, tuyệt đối phải buông xả tất cả niệm, tránh ưa thích đam mê của cái ăn, không khởi niệm ưa thích ham muốn đối với thực phẩm, ăn bằng sự đạm bạc. Nếu không giữ niệm chơn chánh là thất niệm, ăn mà thất niệm vì tâm đã chu du tận nơi nào, đã đi bằng tư tưởng các niệm bong long điên đảo miệng nhai mà tâm trôi dạt tận nơi đâu, không sống được với hiện tiền tâm. Sở dĩ ăn mà không còn niệm phân biệt vì ăn để sống tu hành, không mê đắm món ăn không ăn theo tâm phàm phu loạn tưởng, ăn trong vô ngã, giữ gìn hành động khi nhai nuốt biết mà không có tác ý, tôi nhai nuốt không vướng mắc vào tự ngã là có tôi nên không có tướng ngã, vì không tự ngã nên niệm không có chỗ dựa vào tạo tham đắm là không mê ăn nữa, không có tôi là không có người ăn.

Tánh giác phải thường kiểm soát sự sinh khởi của tác ý khi mê muội thì tâm ý làm chủ ta, dẫn ta đi khắp cùng thế giới. Người tu tự khống chế tâm ý, tự làm chủ ý, khi tác ý khởi muốn điều gì, phải thông qua tánh giác, phải so đi tính lại thật kỹ gọi là trạch pháp, chọn lựa thật chánh đáng, khi có sự đồng ý của tánh giác thì mới quyết định làm điều đó gọi là chánh kiến, chánh tư duy. Tâm ý giống như khỉ, vượn chuyền trên cành cây. Ý thì chuyền vào ngũ dục, chạy nhảy theo sắc tài danh thực thùy. Kinh Kim Cang dạy phải lìa tam tâm tứ tướng, tam tâm là tham sân si ( ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai) ; tứ tướng là tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả ; ngã là mê thân, tìm kiếm món ngon, áo quần tốt đẹp để trang bị cho tự ngã ; mê nhân là mê người ta ưa thích thương mến, mê chúng sanh là ham muốn số đông người để phục vụ cho ngã ; mê thọ giả là mê thọ nhận sự giàu sang, sung sướng được nhiều của cải tài sản, có các hành động đều do sự mê lầm mà người tu thường bị trói buộc, sa đọa gọi là đọa vào ngũ dục, nếu không khống chế được ý thì các căn đều khởi động niệm thân và tâm đều chao đảo.

Người tu ngồi thiền, gặp nhau chào hỏi bằng cách chấp tay, mục đích là cản trở hành động, luôn nhiếp tâm, tượng trưng bằng cách chấp tay búp sen là lúc nào cũng gom tâm, chánh niệm kiểm soát và ghi nhận mọi hành động khi các sự việc xảy ra xét kỹ coi niệm tham có sinh khởi không ? Cử chỉ hành động hoàn toàn thánh thiện, vô niệm. Người tu thiền phải ngồi tư thế lưng thẳng đứng để tránh bệnh hôn trầm là buồn ngủ, kiểm tra từng tư tưởng, vừa phát khởi niệm liền trở vào chánh niệm.

Hình thức kinh hành hay ngồi thiền chỉ là phương tiện đầu tiên, điều cần là theo dõi các niệm sinh khởi. Trong đời sống ta vẫn nghe, vẫn biết tất cả niệm nhưng không duyên theo, rượt đuổi nhập vào vọng niệm. Tu là sáng suốt biết tất cả nhưng không khởi tâm niệm phân biệt chán ghét cuộc đời, tất cả các hoàn cảnh bên ngoài và tư tưởng các vọng niệm sẽ lại qua đi gọi là “các pháp tùy duyên đến, tùy duyên đi” ta không đeo níu bất cứ hoàn cảnh hay tâm niệm nào dù tốt hay xấu. Biết vạn pháp là sanh diệt, diệt sanh, hóa hiện vô thường, ý thức được diễn biến tất cả pháp, mà không có niệm nào đeo níu, người tu phải tự kiểm tra lìa tứ tướng, lìa pháp, cổ nhân dạy rằng :

“Ruộng dâu hóa biển, vạn pháp vô thường”.

Lúc làm việc biết đang làm không dựa vào cái tôi, cho là tôi làm, không có tôi thì không có ai buồn vui, ưa thích hay chán ghét nên tuy thân đang làm việc mà tâm vẫn sống với vô niệm, vì có làm mà không khởi động tâm nên tâm an vì vô ngã, tất cả sự khởi động đều do từ tác ý mà có niệm. Sự tập hợp các diễn biến xảy ra mà có hoàn cảnh vui buồn, thương ghét, phải thoát ra ngoài cái tôi mới không còn ý niệm về ngã. Hoàn cảnh bất hòa vì tâm niệm không đồng chỉ vì bản ngã. Phật dạy tất cả pháp điều là ta, ta là tất cả không gì là riêng tư, mọi tâm niệm hoàn cảnh đều hòa nhập, không chướng ngại, bởi lầm chấp tứ đại là tôi, phải sống bằng cách thấy niệm, làm chủ niệm, sáng suốt vô ngã đó là chơn như. Có tâm hiện hành là đã có sự kết hợp qua một chuỗi dài của nhân duyên, niệm niệm mà sanh tâm. Các pháp có mặt đều do nhân duyên hiện hành, không có ai làm chủ, thấy được điều này là do tánh giác chiếu soi, tâm hiện hành là do sự chuyển động của tác ý, mọi người bị mê lầm vì thường chìu chuộng tâm ý qua tư tưởng tà vọng thế gian, thường uốn nắn con người mê muội đùa vui trong ngũ dục. Tác ý sanh mọi động niệm đều là nguyên nhân của sự ham muốn mong được như ý. Tâm bình đẳng thì phải chấp nhận hoàn cảnh dù không vừa ý, các duyên tự đến đi dù thuận hay nghịch cảnh.

Khi đi phải chú ý chân đang dở bước đạp thật nhẹ nhàng, đều đặn, mọi bước đi đều biết rõ, đi trong nghỉ ngơi, không một tư tưởng nào xuất hiện, hay một tác ý nào làm tâm khởi động niệm là đi trong chánh niệm, quán sát cẩn thận, không vội vã “đi để mà đi” mọi hành động đều thinh lặng trong chánh niệm. Thiền quán đều tương tục, tâm thinh lặng, mọi việc mọi hành động đều trang nghiêm thanh tịnh, cảnh vui không niệm theo, buồn không than thở, bất cứ hoàn cảnh nào cũng thường quán sát tâm ở trong chánh niệm. Nếu thất niệm liền biến thành phàm phu tục tử, phải thường là Bồ tát giáo hóa từng tâm niệm, còn phải giác tha là phải hướng dẫn người khác thì giác hạnh mới viên mãn, chính ta thường gạt gẫm ta bởi các niệm mê lầm của thói quen huân tập hằng ngày, miệng đọc tụng giáo lý là lời dạy của Phật, tứ hoằng thệ nguyện, ta thệ gì ? Nguyện gì ? “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Ta hãy tự quán xét lại chính tại tự tánh ta có độ được chúng sanh mê muội chưa ? Hay chúng sanh của ta vẫn khổ đau phiền não, quằn hoại trong ác đạo của các cõi tham sân si là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh vì si mê cứ mãi chở che cho tự ngã lợi dưỡng thân huyễn tạm cho là ta, niệm nào vô minh là nuôi dưỡng tham cầu tự ngã của thân, không hề thương xót cho các chúng sanh tại tâm đã chịu đọa đày từ vô lượng kiếp nên cứ đọc thệ nguyện chỉ nói ở bên ngoài không độ được chúng sanh nơi tự tánh vì không thấy được các niệm gọi là tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Miệng đọc thệ nguyện mà tác ý hành động của tâm mãi niệm nhớ vào ngũ dục, là cách xa lời dạy, xa giáo lý của Phật Tổ. Vậy ta hãy quán lại tâm mà chất vấn điều này trong sáng suốt, tự tại, tự độ chính mình đó là sự thật “Phật tức tâm”, không nhận được điều này dù tu vô lượng kiếp các chúng sanh đau khổ tại tâm cũng không được độ siêu thoát, vãng sanh Tịnh độ vì không giải thoát hết sự khổ các quả báo luân hồi vẫn còn tiếp diễn.

Người tu thường sống trong Thiền quán, tuân thủ giới luật, bất cứ lúc nào cũng kiểm soát tâm để giữ chánh niệm là con đường tiến tu cho mỗi con người lợi ích cho tự bản thân, biết rõ Ngũ Triền Cái là chướng nạn cản trở việc tu hành tu là vượt qua chướng nạn gọi là tinh tấn. Cổ đức dạy rằng :

Đường về Tây phương rất khó

Nhiều yêu ma đón ngỏ chặn đường.

Muốn làm chúng nó chạy tuôn

Phải có lòng Bồ tát có gan anh hùng.

Bồ tát là tự độ, tự giáo hóa xây dựng con người trở nên Thánh thiện gọi là Thánh Bồ tát. Giác tha là sau khi đã giác còn chỉ dẫn cho người khác giác ngộ, phải giáo hóa tự bản thân được giác, xa lìa mọi vọng niệm, rời xa năm triền cái gọi là ngũ ma, ngũ chướng, mạng lưới ma chướng bao vây ta giữa trận địa ngũ hành ngăn trở người tu, ta phải là Bồ tát anh hùng phá trận ngũ ma. Bản chất thói quen con người là mê sắc dục, danh lợi, địa vị, ăn uống, ngủ nghỉ là những vấn đề quan trọng khó buông bỏ cho nên tu phải chiến thắng được ngũ ma, đây là những lưỡi câu mà người tu hành thường mắc nạn sa vào nhận quả báo là đọa lạc.

Thiền, Niệm Phật, Tụng kinh chưa thật đúng là người tu, đây chỉ là phương pháp làm phương tiện trợ lực giúp ta sáng suốt buông bỏ ngũ dục, lục trần để tự tánh chiếu diệu hào quang đạo đức, nhân nghĩa, thương yêu. Một mình đơn độc chiến đấu với ngàn vạn ma quân là nghiệp đã từng huân tập từ vô lượng kiếp, cũng như đức Phật Thích Ca ngày xưa từng đơn độc giữa rừng dưới cội Bồ đề chiến đấu với ma quân. Ngài đã hiên ngang, chiến thắng giành lại tự do an ổn làm chủ được tâm, để gương anh hùng cho chúng ta ngày nay soi dấu mà tu học. Ta phải hết lòng tu hành mới vượt qua năm cửa ải này từ đời đời kiếp kiếp đã từng cột chặt bằng sợi dây vô hình khó thoát chiến đấu hàng vạn lần, phải thường chiến đấu thật dũng mãnh. Phật dạy “Thắng vạn quân ngoài trận chiến hàng vạn lần còn dễ hơn thắng sự ái nhiễm chính mình”, tự mình thắng lấy mình rất khó. Phật và Bồ tát tự thắng mình trước, mới đủ năng lực giáo hóa chúng sanh. Hiểu được tâm mình là điều khó nhất trong đời. Tâm thường chạy nhảy dong ruổi rất khó thấy, khống chế giữ gìn tâm là việc còn khó hơn. Không để tâm bong lung là việc làm của chư Phật, chư Bồ tát, chư Thánh hiền. Ít có người bền chí thực hiện vì đây là đức độ, là đại sự nhân duyên mà Phật dạy trong kinh Pháp Hoa chỉ vì việc này mà Phật thị hiện, tuy khó nhưng vẫn có thể làm được. Các chư Tổ đã trải qua, vượt lên chiến thắng nên ngày nay xứng đáng được mọi người ca tụng, tán thán, tôn thờ, kính trọng, học theo đức độ các Ngài, đã chiến thắng hàng vạn lần gương đạo đức này để lại cho ta làm gương mẫu là những kinh nghiệm, lời khuyên dạy hướng dẫn cho ta. Tu phải có kinh nghiệm nhờ thâm nhập được kinh tạng.

Tổ dạy đại mê thì đại giác, khi đã khắc phục được những mê lầm là vốn liếng qua kinh nghiệm thường tu học vì đã chiến thắng ngũ ma, từ sự trải nghiệm thấy biết kẻ thù là ai ? Chính thật là “Tôi” từ tôi mà muốn ham tất cả, phải đối phó tâm ý, đây là thế lực tại nơi ta, có khi ta chiến đấu nó, rồi có khi ta bảo vệ nó cứ mãi xoay vòng đó là ngũ triền cái, nó nằm trong cái “ta” là năm điều cản trở khó phát sanh trí huệ. Năm cửa ải này đóng bít trí tuệ, dù tụng kinh gõ mõ, ngồi thiền, niệm Phật, lạy Phật thật nhiều mà không qua được năm ải này cũng không có trí tuệ phải giải thoát vượt qua ngũ triền cái mới ra khỏi lục đạo luân hồi xuất khỏi tam giới.

Tham dục là dục vọng lớn nhất, sự đam mê sắc dục, hết đeo đuổi việc này đến việc khác. Mê nhà cửa, danh lợi, tài sản, con cái, chồng, vợ tất cả đều là sắc dục nên không giải thoát vì lòng tham dục đòi hỏi, ham muốn, lòng tham dục không bao giờ được thỏa mãn nên không chấm dứt “hậu hậu vô chung”. Tất cả đều do niệm muốn ham, chẳng kết thúc, nếu không như ý tâm sanh bất mãn được bao nhiêu cũng vẫn thấy còn khổ là đã hưởng thụ những gì cho là tốt đẹp thỏa thích cũng chỉ là pháp sanh diệt vô thường, không bền chắc. Mãi niệm không được như ý thì tâm sanh bất mãn, bất bình, sẽ khởi niệm tìm những dục vọng của các thú vui mới. Ta phải nhận diện được sự khổ do lòng tham dục mới thấy được sự thật của cuộc đời, là thấy đạo. Vì mãi lo chăm sóc cho ngũ dục qua nhiều hình thái, là sắc đẹp, hình tướng yêu kiều, âm thanh du dương êm dịu ưa thích mùi vị say mê cảm giác đó là những đối tượng cũng cố nuôi thêm lớn lòng tham dục. Tất cả sự hận thù tranh đấu cũng vì lòng tham dục mà níu kéo vào bánh xe luân hồi sanh tử. Tổ dạy “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. Vô nhất vật là không là gì của tâm cả, đây là căn bản quan trọng mà người tu cần thực hành thông suốt vượt qua.

Con người trong tâm lúc nào cũng có sẵn sân hận, phiền não chờ sinh khởi. Dù có sân, có phiền não nhưng giác biết không bao giờ khởi niệm ác hoặc trả thù, giận mà trả thù, hại người là hạng hẹp hòi, tiểu nhân. Nếu có giận, có buồn nhưng lòng không hận oán, đã định niệm vì có tánh giác tự khắc phục. Giận hờn vốn tích lũy nhiều đời kiếp sâu dày mà không có duyên khắc phục, khi đã tự giác khống chế được không đem lòng oán hận, buồn trách mà biết dừng các tà niệm sinh khởi biết quay về chánh niệm, giữ tâm an định đó là tự rèn luyện cho tâm thuần thiện. Sân hận vì mê si chỉ muốn tiêu diệt đối phương, làm cho họ đau khổ chỉ vì tự ngã, tất cả đều hỗn loạn, xáo trộn, đấu tranh. Lòng sân hận là đang bị lửa nóng thiêu đốt, hừng hực rất dễ sợ, nếu sáng biết đây chỉ là tâm niệm sân hận, cần khống chế tâm niệm, nếu không giác kịp thời nó sẽ đốt cháy tất cả.

Thụy miên là lười biếng, uể oải mê ngủ nghỉ, lừ nhừ không dũng mảnh, dãi đãi, chậm chạp không năng lực, Định lực, tinh tấn lực, huệ lực tu là chiến thắng được các ma chướng này.

Trạo hối là tâm xao động buồn rầu, lo nghĩ, hối hận, lăng xăng. Nếu còn những niệm này thì không tập trung tinh tấn được, lao chao từ trạng thái này đến trạng thái khác khó phát triển trí huệ.

Tâm nghi hoặc là nghi ngờ giáo pháp, nghi ngờ khả năng chính mình, nghi có nhân quả luân hồi không ? Nghĩ chết là hết hay sẽ tái sanh, mãi chạy theo mê tín dị đoan, tin ngày giờ tốt xấu v.v… Tất cả là những tâm hành tự khởi, vì không biết giáo hóa nên nó cứ mãi dong ruỗi mông lun. Chúng vốn không có ngã chỉ là một chuỗi nhân duyên hiện hành vô chủ, tự đến tự đi. Sự náo loạn của tâm sẽ là trở ngại rất lớn làm trì trệ trí tuệ, mất khả năng tập trung an định, mãi mãi mịt mờ tăm tối bởi các niệm vô minh, không thật, tư tưởng lầm chấp nó là ta. Phải nhận diện ý thức thật rõ ràng khi có sự xuất hiện có mặt của nó, đó là phương pháp có hiệu quả đưa ta đến chánh niệm. Chánh niệm là tâm trong sạch an định, không còn nắm bắt các tà vọng không thật, các pháp sanh diệt tùy duyên đi đến các pháp hữu vi. Khi vừa khởi lên tham dục, sân giận, trạo cử, thụy miên, nghi hoặc, liền giác biết nó không phải là ta thì không cung phụng nó vì tánh giác biết ngũ triền cái đang hiện hành, việc gì cũng sẽ qua nếu mê lầm cho vọng niệm điên đảo là ta, cứ mãi bồi đắp cung phụng, nuôi dưỡng, bảo vệ đuổi theo thì tâm này là nghiệp, sẽ dẫn dắt ta vào địa ngục vì vô minh. Ý thức được những gì xảy ra là con đường đưa ta đến chánh niệm, khống chế được điều này đó là TRÍ GIÁC.

TRÍ GIÁC vốn không màu sắc, hình tướng, nếu phát hiện được những tâm niệm phiền não, sân si … đó chính là TRÍ GIÁC đã phát hiện, đã giác nên liền biết. Trí giác vô hình, vô tướng, không thể tìm kiếm được. Sống bằng trí giác là không theo các niệm huyễn hoặc, mê lầm, đau khổ. Trí giác giống như cái thấy của mắt, vừa thấy vật là biết ta đã có con mắt, vừa nghe âm thanh biết ta đã sẵn có lỗ tai, cũng như khi khởi tâm sân si, tham đắm, phiền não liền biết là ta đã có tánh giác của sự thấy nghe, không cần tìm kiếm nơi đâu vì tánh giác thường hằng, thường biết. Ngũ triền cái là những tâm hành không thật, vô thường. Khi niệm sân si nổi lên, tánh giác biết thật lẹ làng, biết rõ niệm này là vô thường, lập tức đối trị tức khắc thì phiền não tức Bồ đề, niệm sân là mê liền giác đó là trí giác. Giác biết các pháp là vô thường liền chánh niệm là tự giác, biết nó đang hiện diện nên thinh lặng, vì hiểu biết không khởi niệm nắm giữ gọi là tâm an định. Sự đến đi của các niệm là khách, tánh giác là chủ phải sáng suốt sử dụng kịp thời để giáo hóa. Nếu còn quán pháp trong suy luận là tâm niệm còn lừ nhừ, chưa nhanh nhẹn đã phá vô minh.

Sự vô thường của cái chết xảy đến thật cấp bách, tu là đối trị giải quyết cái chết, chết không sợ chỉ sợ luân hồi, luân hồi sẽ dẫn ta vào đường đau khổ, đày đọa, bớt lòng tham dục sẽ tăng trưởng trí huệ.

Sáng suốt hiểu từng hành động gọi là chánh niệm, ta phải hiểu biết chơn chánh. Biết sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, cuộc sống chẳng trụ bao lâu, chắc chắn sẽ đến cái chết, thế gian là vô thường không thật, của cải sẽ tiêu hao mất mát, sau khi mãn thân không còn gì cả, nghiệp thức từ vô minh nên khó hiểu biết vì vô minh mê muội cứ huân tập làm vô cùng điều tội lỗi. Khi quy y Phật là trở lại những điều hiểu biết chơn chánh của sự thật, diệt bỏ mê lầm từ lòng tham sân si, dốt nát khởi lên khi đang huân tập sống với pháp nào ta phải biết. Khi nói năng ta phải biết đang nói trong tâm niệm gì, có thương yêu hay còn thù oán mà thốt ra lời nói, mọi hành động đều biết rõ, đến suy nghĩ cũng phải biết đang sáng suốt biết các pháp là tu trong chánh niệm đó là con đưòng tám chi nằm trong Bát Chánh đạo con đường hiểu biết chơn chánh.

Người niệm Phật cũng giống như người tu thiền, đều phải hiểu biết chơn chánh, nghĩ chơn chánh, tu thiền cũng phải giữ chánh niệm là không nghĩ nhớ lung tung. Chánh niệm là tập trung từ đầu đến suốt không một tạp niệm nào xen vào, kiểm soát hơi thở biết rõ ràng, bỏ tất cả tâm niệm quá khứ, vị lai, tập trung vào chánh niệm sẽ thấy được sự huyền diệu của tâm. Muốn có chánh niệm phải có chánh tri kiến sẽ có chánh định, chánh trí huệ phải tập trung vào sâu chánh định, chánh niệm, không thấy được sự huyền diệu của tâm vì thiếu hiểu biết.

Khi niệm vừa khởi phải biết đang niệm gì ? Mọi hoàn cảnh đều sáng suốt là sứ giả của Như Lai. Khi Đức Phật khai thị đưa cành hoa ở hội Linh Sơn Ngài muốn chỉ vào cái biết, nên vừa biết ngài Ca Diếp mở miệng cười để biểu lộ cái biết ( tánh giác ) nhận rõ có vật vốn nó cũng là không, nên không khởi lên niệm phân biệt chấp trụ cho là tốt xấu, đã tắt hết mọi suy nghĩ, suy luận gọi là luôn sống với chánh niệm, chánh định vì có chánh kiến, chánh tư duy nên chánh huệ được sử dụng.

Phật dạy ta tu trên con đường trung đạo, không cố chấp cực đoan. Hạnh buông xả qua hành động bố thí, nhịn nhường, giữ gìn giới luật, nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn xài phí, nhịn lời nói, nhịn tranh giành, nhịn sự cao sang, ngã mạn, phải biết lìa bỏ những gì còn trói buộc tâm ta, như nhà cửa, ruộng vườn, tài sản phải chuyên tâm nhất trí, không nghe bằng lỗ tai, nghe bằng tấm lòng từ bi, phải tìm ngay tâm mà tu.

Khi đi khi ngồi phải thấy từng tâm niệm chuẩn bị làm việc gì ta liền biết có làm lợi ích hay làm khổ mọi người, đó là sự giác đặc tính của người tu. Sức mạnh của tâm chính là huyền năng, muốn làm việc gì, thành tựu xây dựng điều gì đều từ nơi tâm. Mọi việc không ngoài tâm, đều do quyền lực từ trí huệ. Trong tâm mọi người đều có hạnh đại huệ Bồ tát là niệm giác sẵn tiềm ẩn trong A-lại-da thức thông suốt hiểu biết, đầy đủ trí tuệ là điều quý giá nhất của con người tạo ra được tất cả mọi sự vật đều do quyền lực của trí tuệ, sức mạnh có công năng chiếu sáng trùm khắp vạn vật, phải công phu đều đặng không gián đoạn mới phát hiện được sự huyền diệu khả năng trùm khắp của tâm.

Trực giác là thấy rõ, biết rõ, không qua sự tưởng tượng ; định là thấy rõ ; huệ là biết rõ chứng thật, ngộ được chân lý chính xác, không biết bằng ảo tưởng, mơ mộng. Trực giác xuất phát từ nơi tâm tĩnh lặng thấy biết rõ từng hành động đang hiện hành, không suy nghĩ mông lung theo không gian thời gian. Tưởng tượng là khái niệm suy diễn qua nhiều hình thức không thật. Niết bàn là sự chứng thật tại tâm không qua suy nghĩ của danh từ truyền miệng, hoàn toàn không dính dáng vào âm thanh, sắc tướng của vật chất thế gian qua hình tướng mà thành tựu bằng trí huệ, bằng sự tu tập yên lặng từ nội tâm, giống như mặt nước trong hồ bị gió sóng gây ra làm xao động nên không thấy gì cả, chỉ thấy nước lao xao, khi sóng gió không còn, yên lặng, sẽ thấy tận đáy hồ, vậy tâm không bị lao xao vì trần cảnh thì sẽ tịch lặng an nhiên, nhận rõ tất cả pháp sự thấy đó chính là trí tuệ. Tâm không tĩnh lặng thì trí tuệ không chiếu soi được, từ cái nhìn đó sẽ có sự sáng tỏ hiện ra rất rõ gọi là kiến tánh, là người có tâm tĩnh lặng. Điều này chỉ có người tu tự chứng như thật sự biết không thể chỉ hay diễn tả chính xác được bằng ngôn từ như thế nào, chỉ tạm nói vì đây là chỗ bất tư nghì, bất lập văn tự. Nếu biết được chỉ qua tưởng tượng của danh từ là chưa đến cứu cánh nên ta hãy đi rồi sẽ đến, qua cách chỉ đường ta phải tự đi, tự chứng tự ngộ nhập.

Sự hiểu biết trí huệ chỉ xuất hiện khi tâm ta yên lặng bất ngờ sẽ phát hiện, không hình, không tướng, không màu sắc, giác ngộ là sự biết đột ngột không diễn tả được, thoát ra khỏi ngôn từ nên Phật nói “Đạo ta khó thể nghĩ bàn”. Nó không phải là sản phẩm của bộ óc suy nghĩ tưởng tượng mà vỡ lẽ bất ngờ thấy được chân tướng sự thật của sự vật, không mườn tượng qua ảo ảnh hay ảo tưởng là thấy Phật, thấy Trời, thấy Tiên, Thánh trong tưởng tượng mơ màng, không thật sự. Thật biết thế giới do cái gì sanh ra, có địa ngục là do tâm niệm vào tham, si mê mà sanh có súc sanh, cũng do từ phiền não sân hận mà sanh ra cả. Có Trời do tu hạnh Thập thiện, Ngạ quỷ do tâm tham lam mà hiện, An lạc do buông xả mà có Cực lạc, trí huệ do giới luật hiển bày tất cả các pháp đều như vậy, đó là thật tướng của các pháp. Con người sanh ra do tâm niệm gì ? Khổ đau do đâu mà có ? Hạnh phúc an vui bởi tâm niệm gì ? Giải thoát an vui do tâm niệm gì ? Hoàn toàn đều trong sự tỉnh giác phát huy trí huệ bằng phương pháp chọn đề mục, như Thiền quán, Thiền định, Thiền chỉ. Có rất nhiều phương pháp, hoặc pháp niệm Phật, tùy cách tự chọn mà thực hành, tu tập qua những tiến trình khác nhau. Chọn một phương pháp làm hình thức tu tập trong giới luật từ oai nghi tế hạnh là kiềm chế những niệm không tốt đẹp trở thành an lặng, thanh lương. Sự khổ vui, buồn giận, bực tức, đau khổ rồi cũng sẽ qua đi phải dùng khả năng chịu đựng vì các pháp tự đến sẽ tự đi, tự quán xét không khởi niệm phân biệt giận hờn buồn vui hay mến tiếc. Thường quán sát các tư tưởng có sanh rồi sẽ tàn hoại về chỗ trống không ; vui buồn, đau khổ, ưa thích mến thương đều từ hư không do niệm mà sinh khởi không thật tánh, vô thường sanh diệt chẳng trụ vào đâu, hết duyên rồi cũng trở về hư không. Sáng suốt ta không duyên theo các tâm niệm huyễn hoặc mà Phật nói với đệ tử rằng “Các ông đừng cất nhà trên hư không”. Khi thân đau, quán sát bằng tâm vô úy, ý im lặng thấy được mọi sự diễn biến của thân đau từ hư không đến rồi sẽ tàn dần về hư không. Tiến trình của thân và tâm không có bắt đầu nếu mãi tìm kiếm chỉ mất thời gian, không tu hành giác ngộ giải thoát được. Khi nào dứt niệm thì dứt sự hiện hành của tâm và pháp tu là giải thoát cho tâm, thực tế là giác ngộ các pháp không còn vướng mắc. Nếu biết các pháp thế gian, vạn vật đều là vô thường, biết sự thật, chơn lý vũ trụ qua sự vận hành hợp tan huyễn hóa thì sẽ giảm bớt lòng tham dục vì chấp nhận tất cả đều là huyễn tạm, như bong bóng nước, biết sự tàn hoại của sự vật, đưa ta trở lại chánh niệm sẽ sống được với tâm tĩnh lặng. Muốn được điều này phải thiền quán thật sát xao, không quên lãng thường sống với tánh giác.

Đường Thánh đạo để cho người sáng suốt lanh lợi, trí tuệ. Pháp Phật vô cùng cao thượng, người đần độn lừ nhừ không thể đi vào con đường Thánh đạo được. Đần độn vì nhiều đời, nhiều kiếp bị vô minh phiền não che lấp, cứ sống với tâm tranh đua, ham muốn nên đần độn quên tánh Phật sẵn có của ta.

Khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, có tư tưởng tâm tạo ra các cảnh giới phải biết đó là những trạng thái không thật chỉ do tâm thức biến hiện sanh diệt, có hợp có tan, đến đi đều như huyễn. Nếu thiền mà thấy Phật Thích Ca, Phật Di Đà, thấy Tiên Thánh là lạc vào thiền tưởng, do tưởng tượng nên có niệm sinh khởi tư tưởng là ý tưởng riêng tư. Tượng là hình ảnh tự thêu dệt chấp thật, là đã lạc vào mê hồn trận, người tu vì mê loạn nên bị lạc vào. Tất cả đều từ tâm biến hiện vì “vô sở đắc” không có pháp nào đắc hay được gì cả, vạn pháp đều do tâm tạo, các pháp như huyễn, không thật ngã, mê giác đều không, không chấp trụ vào đâu. Phật pháp cũng là vô thường, thậm thâm là Niết Bàn vô trụ, nói có Niết bàn Thanh văn, Niết bàn Duyên giác, Niết bàn La hán … tất cả đều vô trụ, vì tùy căn cơ mà Phật hóa hiện, mượn tướng dùng danh từ tạm đặt chỉ từng giác phần theo trình độ chúng sanh mà Phật tạm giả lập, phải căn cứ vào lời dạy của Phật mà thực hành sáng suốt.

Tâm niệm thường tuôn chảy như dòng nước, ta không nắm giữ lại nên thả tâm niệm này theo thiên nhiên, tự tại nhưng vẫn giữ chánh niệm trong tĩnh lặng.

Tâm an tĩnh thì hơi thở rất nhẹ nhàng, người tu thiền trong thời gian dài tâm rất yên lặng, thanh tịnh vẫn nghe được hơi thở, vẫn biết đang ngồi ngay thẳng vẫn chú tâm. Tánh giác thường chiếu, phản ảnh vào thế giới bên ngoài, biết thật rõ nhưng không đắm nhiễm, ưa thích hay chán ghét chối bỏ. Ngồi thiền phát hiện cơn buồn ngủ từ bên trong, ngủ trong đê mê bất biết sẽ đưa đến cơn ngủ kéo dài không còn biết gọi là hôn trầm. Người tu thiền tâm định sáng suốt vì đã thông thấu được giáo lý, biết đủ các pháp, giới luật nghiêm minh tất cả thành tựu, sáng suốt chơn lý, biết rõ vũ trụ quan, nhân sinh quan nên ngồi với trạng thái nhẹ nhàng. Tâm là tỉnh giác, nhẹ mà nghe được hơi thở, nhẹ mà kiểm soát được thân tự nhiên thanh tịnh, an vui, tĩnh thức, sáng suốt vô cùng, không bận bịu vào các vọng niệm nên đã bước vào chánh định, vì chánh tri kiến thấy được các niệm sinh khởi. Ngồi thiền có ý thức phát giác tà niệm có lúc sợ hãi khởi lên vì đã phát hiện có một tâm niệm sai lạc nên hốt hoảng vì biết đã bước vào vô mình, vào sự muốn ham ái dục giác biết sẽ sa vào địa ngục nên bất giác hoảng loạn mất chánh niệm. Khi giác biết pháp là không thật, cơ bản của nó tự đến rồi đi liền định niệm buông xả, cũng không cần quán tưởng tìm hiểu nguyên nhân, có sự hoảng sợ vì còn tự ngã, tánh giác liền biết nên buông bỏ tâm hiện tại là sợ hãi, kiểm tra lại thân còn có trang nghiêm không ? Và lập tức quay vào chánh niệm, biết đó là tâm niệm không thật chợt đến nên trở vào hơi thở quán phồng xẹp, giàu nghèo sống chết đều do tâm niệm. Nếu thêm vào tự ngã cho rằng tôi giàu, tôi nghèo, tôi sống, tôi chết đều do vô minh mà sanh ra. Tự cao, tự ái, sợ hãi tất cả đều do tâm niệm chảy phớt qua rồi biến mất.

Tự tánh không lớn nhỏ trùm khắp vạn vật thế gian, xuất thế gian, có khả năng quan sát mọi việc xảy ra, lúc nào cũng an tĩnh tịch lặng. Ta có thân hiện tại cũng do tâm niệm đời trước duyên theo nghiệp mà sanh thân tùy niệm mà đến, các cõi đều do tâm niệm tạo không thật. Thiền là kiểm soát tâm niệm khi các niệm khởi lên sân si, mê đắm biết nó là huyễn hóa tức thời giác biết đó là những tâm thức phát khởi do động niệm các pháp nên không chạy theo, nhận ra các niệm lăng xăng điên đảo. Quán được tâm thức là công năng của trí giác, dùng một pháp quán để quán thân là quán sắc. Tâm là danh có danh tự nhưng không có hình tướng. Ta hằng kiểm tra tâm niệm khi khởi lên, kiểm thân và tâm cùng một lúc. Ngũ uẩn là sắc thọ tưởng hành thức, thân là danh sắc, thọ tưởng hành thức vì mê niệm sanh khởi chấp ngã, tự cho bốn uẩn này là tâm, nên điên đảo sống trong mộng tưởng. Ngũ uẩn vốn không mà lầm chấp là thật của ta. Phải coi lại thân có ngồi ngay thẳng không, đang có tâm niệm gì, đang muốn niệm gì ? Tâm thức là đối tượng thường gắn liền với nhau nên phân biệt cả hai tiến trình, một là tâm, hai là sắc. Chúng có hai nhiệm vụ của tâm thức là phân biệt và nhận diện hành động đối với sắc, khi đã an tĩnh nên chú ý biết những gì đang xảy ra bằng cách thật nhẹ nhàng, thoải mái. Quán chiếu là không dùng đến danh từ ngôn ngữ hay khái niệm mà cảm nhận, sự khởi động cùng một lúc với đối tượng danh và sắc, tuy đang quan sát nhưng không thấy có người quan sát, có quan sát nhưng không có một chứng nhân nào cả. Pháp quán này cần phải thông thấu giáo lý, thông hiểu lời dạy của Phật như Thập Nhị Nhân Duyên, Bát Đại Nhân Giác, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, 37 Phẩm Trợ Đạo, Thất Bồ Đề Phần cần học mới vào được pháp quán vì đây là thế giới của chư Phật. Phật dạy cõi Cực lạc có những pháp bảo này nếu ai biết mới về được cõi Tây phương Tịnh độ. Nếu không biết cứ niệm A Di Đà Phật thì cũng định nhưng chỉ là định khô vì không có pháp bảo tẩm ướp phát sáng trí huệ rộng lớn hiểu biết chơn lý sống được với chơn lý. Minh tường sự thật của cuộc đời, biết các pháp vốn là như vậy không còn khởi niệm phân biệt nên tự tại giải thoát.

Người tu giống như một dũng sĩ, là vị tướng cầm quân diệt trừ loài ma tặc ( sát tặc, bố ma ). Đức Phật là bậc Đạo sư, là vị tướng lãnh oai hùng đánh trận ma quân dưới cây bồ đề, người lười biếng dãi đãi đam mê thế gian không thể đi con đường của Phật. Dũng sĩ là người oai dũng, cao thượng, dám bước vượt lên mọi chông gai hiểm nạn, khó khăn, cám dỗ của cuộc đời, đạp trên phiền não ma chướng, đã phá sân hận, si mê, đem lại hạnh phúc cho chúng sanh của mình và của mọi người, điều này phàm phu không thể làm được, nên niệm phàm phu không có phần vào Phật đạo. Ta phải tự kiểm điểm lại coi có đủ khả năng không vì đường này là chánh đẳng chánh giác là con đường vô thượng. Người tu thiền phải biết hiện là một dũng sĩ chiến đấu với ma quân, chiến đấu với giặc phiền não, tham, sân, si những lậu hoặc của các tạp chướng rất kho, nên Cổ Đức có câu :

Nhiều thử thách đang vây con đó

Chớ ngã lòng công khó tiêu tan

Việc chi còn ở trần gian

Là điều huyễn hoặc chớ mang vào lòng.

Ta phải đi trong thử thách chông gai, đi trên khó khăn, đi trong nạn ách, không cầu sự sung sướng vì con tạo lấy mà con không hưởng. Hưởng đạo mầu mới quý nghe con.

Không màng đến sự phê bình khen chê, chỉ hạnh phúc khi đã tiêu diệt được sự ham muốn chính mình là niềm vui của người dũng sĩ nhà Phật, Cổ Đức dạy rằng :

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha

( gươm trí huệ )

Đền xong nợ nước thù nhà

Thiền môn trở lại Di Đà nam mô.

Nghĩa là dùng gươm trí huệ, xông pha vào thế gian này đầy đau khổ, dẹp hết nghiệp mê cõi nước tại tâm, trở thành Tịnh thổ an ổn mới trở lại tâm thiền, tri kiến tự tánh Di Đà sáng suốt tại tâm. Chỉ cần hoàn thiện tâm thức tốt đẹp, việc khen chê là của cuộc đời không vướng bận để tâm niệm luôn tĩnh lặng, tự tìm hiểu khắc phục mình được chơn chánh, con đường này thật hiếm hoi, hiếm có, dù khổ sở nghèo nàn vẫn vui cười, đủ năng lực sống ở thế gian, mọi hoàn cảnh đến đều sáng suốt, không chối bỏ trốn tránh cuộc đời nơi nào cũng oai dũng, khuất phục được hoàn cảnh, không sợ phiền não, không sợ trần sa hoặc luôn tập tánh đức, tánh tốt giúp ta tỉnh giác trọn vẹn quyết lòng tu tập như lời Phật dạy. Đức tánh của người dũng sĩ là suy nghĩ tư duy sáng suốt chơn chánh, tỉnh táo không hoang mang bối rối, việc gì xảy đến là giúp cho ta luôn ý thức oai nghi, duy trì năng lực đối với tâm thức, ý thức được tâm không bị lôi cuống vào những cơn lốc xoáy của gió bát phong cân bằng tâm mình, biết thật rành hiện ta có bị lôi cuống trong tình cảm, ăn uống, ngủ nghỉ, tham muốn… hay không? Đó là người dũng sĩ luôn thắng thất tình lục dục, là dũng sĩ nhà Phật, uy nghi chiến thắng dục vọng là lìa bỏ tất cả, thắng tất cả, sống với tâm tỉnh thức toàn vẹn, phải cố gắng và cố gắng mãi mãi, thường thỉnh mời Thường Tinh Tấn Bồ Tát tại tâm là bạn lữ đồng hành trên đường Phật đạo, phải đầy đủ lòng can đảm đả phá tất cả mọi cuồng vọng đảo điên.

Dấu Đức Phật đã đi rõ lắm

Chân chúng sanh cần bấm đi theo

Muốn tu đừng có sợ nghèo

Muốn làm con Phật phải diệt ngăn lòng tà.

Không nô lệ bởi lòng còn thành kiến cố chấp, can đảm sống cởi mở trong sạch, không tin mù quáng điều gì, không vì sự phân biệt nhỏ nhoi thế trần làm nản chí. Tu học là trực tiếp thăm dò quán sát mọi sự việc hiện đang xảy ra tại tâm, nó sẽ triển khai sáng suốt trên con đường Thiền quán, thẳng thắng đối diện sự thật của thân và tâm. Ban đầu nó rất động loạn, xáo trộn phải thật can đảm mới buông bỏ được những gì mà ta đã hằng nắm giữ, tạo sự an ninh, tự do chính mình, sự thật là ta đang tàn hoại từng giây phút, không có một nơi nào ẩn náu, mỗi tâm niệm khởi lên trong sự sống là đang tiến lần đến chết, đó là sự thật đang tàn hoại, phải kinh nghiệm được cái chết khi còn sống, phải tự chấp nhận trong kiên nhẫn và thinh lặng.

Tâm bất động của người trí không phải là chẳng làm gì, chỉ là không tính toán, tâm không lay chuyển bởi trần cảnh, tự an ổn, không gượng ép, mà làm cho an tĩnh, thường an định trước sự giàu sang, cám dỗ của thế gian, làm tất cả khi đối diện, sử dụng tất cả mà không động tâm xao xuyến, mê chấp vào sự vật. Người trí tĩnh lặng trong thanh thản như gương sáng giữa trời đất vạn vật phẳng lặng, an nhàn, thanh tịnh, bất động đó chính là đạo luôn sống với bản thể tịch lặng sáng suốt là sức mạnh hiểu biết đều phát sinh từ thinh lặng.

Đức Phật dạy Tam vô lậu học là giới năng sanh định, định năng sanh huệ, đời sống phải có giới luật là giữ tâm niệm không khởi lên ham muốn đòi hỏi điều gì về sự ăn mặc ngủ nghỉ. Tổ dạy :

Sao sao sao cũng là sao

Sự chi cũng vậy thế nào cũng xong

Tâm không vạn sự đều không

Tâm chơn vạn pháp thảy đồng qui chơn

Học đòi theo bậc Thánh nhơn

Phải trừ tâm vọng mới hườn bổn nguyên

Vọng tâm là ý tư riêng

Thất tình lục dục một tên khác gì …

( CLKS )

Người giữ gìn tâm được như vậy đó là định, ở trong vắng lặng là không có niệm tham sân si phiền não thì trí huệ tự nhiên sáng suốt, ở trong định trí huệ mênh mông, thấy cả bầu trời, thấy khắp vạn vật chúng sinh đều rỗng lặng, thanh tịnh đó là nhờ giới sanh định nên có huệ là chân thật huệ sự an vui tận đáy lòng của người tỉnh thức.

Mấy độ trồng hoa hoa chẳng nở

Vô tâm cấy liễu liễu xanh um.

Ta sẵn sàng học pháp, nhưng biết pháp là trợ đạo là đạo lý, ta không đem văn tự mà phân tách, chúng sẽ là tù ngục trói buộc ta, gọi là không chấp pháp ; pháp là phương tiện trợ lực đưa ta đến chánh đẳng chánh giác ; pháp trợ lực cho ta dẫn đến sáng suốt, trí huệ, đến bờ giác ngộ ; pháp là phương tiện là thuyền bè đưa ta đến sự tỉnh giác, ta không bị pháp là phương tiện mà cột trói, khi đã lên bờ giác phải buông bỏ pháp, vì Phật pháp còn phải bỏ huống chi là phi pháp, ta phải xả bỏ tất cả không bám níu một pháp nào. Kinh dạy Bát Nhã dạy :

Tâm không còn chút ngại ngăn

Cũng không còn chút băn khoăn sợ gì

Đảo điên mộng tưởng xa lìa

Niết bàn mới đến bên kia bến bờ.

Ba đời chư Phật đều y như vậy, Thiền mà nghe tâm thức đối thoại cùng nhau, hết điều này đến việc khác chúng rầm rì trò chuyện đó là thức biến hiện, nên tỉnh giác sáng suốt, nhờ có pháp bảo nên đầy đủ kinh nghiệm, thường tu tập giúp ta thông suốt quyết định điều phục được tâm niệm khi sinh khởi, lắng nghe trong chánh giác biết đây là pháp thế gian, đây là chơn như, đây là Như lai, tất cả đều sáng suốt nhận định tự nhiên hiểu biết các pháp đều là trợ đạo. Khi phát hiện có tâm đang hiện hành là của pháp nào phải nhanh lẹ phản ứng tức thời. Sự biết phản ứng đó là tánh giác khi đã phát hiện nên lập tức buông xả, thật sáng suốt, oai dũng, nhận định tận đáy lòng đâu là giải thoát, đâu là tự tại, thế nào là an định, phải biết nhận định đó là tâm nào, tâm nào giúp ta sáng suốt, nhận định này phát xuất chiếu soi từ thinh lặng. Tất cả hiểu biết đều có sẵn hạt giống từ vô lượng kiếp chỉ vì ta mãi đuổi bắt theo hình bóng huyễn giả mà tự chối bỏ tánh giác, vì không nhận định được tham sân si là pháp dẫn ta vào con đường sa đọa đưa ta vào tam ác đạo, là sự gạt gẫm của Ma Vương. Pháp Phật không cùng tận, vô lượng, vô biên nên ta phải tu mãi, tu hoài không ngưng nghỉ.

Trong a-lại-da thức có vô lượng âm thanh, nếu ta thực hành hạnh lắng nghe sẽ ghi nhận được nơi đây có vô số sự đam mê. Cần tĩnh lặng nghe tất cả mà không có niệm nào vướng bận, vạn vật côn trùng thảo mộc đều nghe được và phân tích gọi là trạch pháp. Thế giới này rất khó đến, cần một con người có tỉnh thức sáng suốt mới xông pha vào mà không bị ô nhiễm vì nơi đó chứa muôn ngàn sai khác, nếu ta còn tham lam thì vướng tham lam, còn ái dục thì vướng ái dục, còn sân hận thì vướng vào hận thù, còn si mê thì sa vào loạn tưởng điên đảo, nơi đây là vô lượng cửa ải của vô minh, vô cùng vô tận, phải đủ hạnh đức nhẫn nhịn là buông xã. Nhịn ăn không phải là nhịn ăn thực phẩm mà nhịn ăn tiền của, nhịn danh vị, nhịn vật chất, nhịn tình cảm… nhịn tất cả, buông xả tất cả, phải có Thường Tinh Tấn Bồ Tát tại tâm thường hướng dẫn, phải đẩy đủ ngũ căn, ngũ lực mới vượt qua là sức mạnh giúp tâm được thanh nhẹ, pháp nhịn buông xả này không đè nén, không là đau khổ mà tự nguyện tự giác sự an lạc rất đơn giản mà không ràng buộc. Không có phương pháp siêu phàm nào đem đến ngoài sự buông xả bố thí này, không đòi hỏi việc gì lớn lắm, chỉ ở ngay trước mắt con người đó là pháp nhịn.

Nhịn nhường là giới đầu tiên

Kìa chư Phật vẫn nhắc khuyên ta hoài

Kẻ mong lìa bỏ trần ai

Mà con phiền giận thật ngoài chữ tu.

( CLKS )

Đời sống thật giản dị không bị tiện nghi ràng buộc, cuộc sống bị ràng buộc vì đòi hỏi tiện nghi nếu không như ý thì sanh tâm phiền não đau khổ.

Khi sân hận, cơn giận dữ nổi lên chỉ có chánh niệm mới thấy rõ tâm sân hận là nghiệp chướng rất lớn đối với con người nó vốn vô hình vô tướng, khi tâm sân hận nổi lên tức khắc biết nó là nghiệp chướng từ nhiều đời nhiều kiếp làm ta đau khổ là phiền não là nghiệp câu sanh, đời nào cũng theo ta mà sanh, ta ở đâu thì theo đó, là phiền não tham sân si. Nếu vừa khởi biết đó là nghiệp đang khởi dậy, nếu sân là không giáo hóa kịp thời cứ mãi nuôi dưỡng càng thêm lớn do tự nơi ta cứ chấp nhận mà cung dưỡng tâm này gọi là nghiệp càng lớn, càng cao, càng dày. Nếu thấy sân hận nổi lên không niệm theo, sự thấy biết đó là tánh giác đã phát hiện. Tánh giác vốn thường, việc cần thiết là ta phải thường sống được với tánh giác, điều này đòi hỏi người tu phải có công năng rất lớn. Phật nói người thường sống với tánh giác là đã từng cúng dường chư Phật nhiều đời nhiều kiếp, là người đã từng cung kính, trìu mến, thương yêu lẽ phải chơn chánh, biết thương yêu trí tuệ từng đã cúng dường vô lượng vô số chư Phật, chư Bồ tát nên hiện người này hiện cũng đang cúng dường chư Phật và chư Bồ tát mới tìm mọi cách đả phá dập tắt tâm sân hận, phải có tâm dứt khoát chấm dứt không để tâm niệm này nương níu, quyết định không nuôi dưỡng, còn bám giữ thì công năng của tánh giác sẽ yếu dần, nhỏ nhoi khó thành đạo quả. Mọi phương pháp tu học đều có nguyên nhân mục đích là nuôi dưỡng tánh giác quyết lòng giác ngộ, không cầu điều gì khác, tánh giác vốn thường hằng chỉ vì ta không chấp nhận, cứ mãi chấp nhận các niệm tưởng long bong cho là ta nên mãi ôm giữ như ôm giữ bọt bóng. Khi chợt nhớ đến sự thù ghét phải lập tức ghi nhận bằng tánh giác biết đang giận … giận … nhưng quyết định không theo cơn giận. Tánh giác biết đây là tâm khổ đau, phiền não thật rõ ràng nên không theo, không chấp nhận, sự giận dữ không phải là ta mà chỉ là một niệm của tâm sở hữu hiện hành đang theo căn nhãn nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý. Khi giận khởi lên liền giác biết không giận dữ theo sự nuôi dưỡng, không phiền trách, nhưng nếu còn phiền trách cơn giận dữ, gán cho nó một danh từ là nghiệp, là tội báo, là thêm một sự căm giận nữa cộng vào thêm niệm sân nữa càng cao. Biết thấu được điều này thì tâm rất nhẹ nhàng, lời nói nhẹ nhàng, cử chỉ khoan thai, nét mặt nhu hòa, hành động chơn chánh, đó là hình dáng huyền diệu thoát tục của người tu. Chỉ cần giản dị biết đang giận nổi lên, ta không đeo níu ấp yêu, nó sẽ diệt đi vì không có niệm nào nuôi dưỡng nó. Con người thường khổ vì chấp vào các tội, nếu chấp trụ tội càng lớn thì địa ngục càng to. Người nào nhận thấy mình nhỏ nhất ở thế gian này là đức độ người đó lớn nhất ở cõi Trời vì tâm rộng lớn không chướng ngại bởi ngã, đã sống bằng tâm xả, ngã nhỏ thì tham sân si càng nhỏ. Nếu cho ta là quan trọng thì tham sân si phiền não vì quan trọng ngã càng thêm lớn, điều quan trọng là không có gì quan trọng cả, nghèo giàu, sống chết, nhục vinh đều coi là không quan trọng thì hạng người này đã sống với cực lạc hiện tiền tại tâm vì Niết bàn do tâm tạo. Nếu khởi lên sân giận ta không quan trọng nó thì dần dần tâm giận sẽ mất công năng yếu dần, hoại mất, nó đã bị phá hoại công năng, mất năng lực để thành tựu nó vốn từ hư không đến và sẽ diệt vào hư không, không bền chắc, đến rồi tự đi, vốn các pháp đều như huyễn.

Niết bàn là lòng đại bi, đại hỷ, đại xả, nhìn biết mọi hoàn cảnh, biết chúng sanh vì mê lầm nên chịu khổ, không tranh đấu, không giận hờn, ghét bỏ, dù họ làm cho ta khó chịu ta vẫn có lòng thương xót không giận hờn, bực bội vì biết họ đang khổ sở trong biển mê, không biết bao giờ mới giác ngộ, biết được sự thật của cuộc đời. Niệm từ bi là phổ biến sự thương yêu đến cho tất cả mọi người, mọi loài, bao gồm luôn những người ta cho là thương hay ghét, đó là những tư tưởng tốt lành nếu giác ngộ sẽ làm được, đây là điều lành, điều thiện, giúp đỡ chúng sinh mà không tâm niệm nào riêng tư ích kỹ, tất cả vì thương xót thì ta là người giác ngộ. Phải tập thương yêu muôn loài, biết họ vì vô minh vẫn còn sống trong vô minh phiền não, đau khổ nên không có lòng ghét bỏ, đây là việc làm của bậc Bồ tát, của chư Phật, việc làm của tánh giác.

Sân hận là tâm mê muội, ngu si, vì người mang tâm sân hận khi chết sẽ đọa vào địa ngục nên gọi là ngu si. Chính vì ngu si nên tự tạo tâm sân hận, tự đưa mình vào địa ngục, tự giam nhốt tâm vào đau khổ đời đời kiếp kiếp là kẻ ngu si. Nếu sáng suốt phát hiện được điều này thì địa ngục tại tâm liền biến mất, nên nói rằng phiền não tức Bồ đề, bỏ mê thì giác địa ngục tự tâm sanh.

Khi tâm sân nổi lên thì :

Lửa sân đôi mắt đã mờ

Trắng đen phải quấy bây giờ thấy đâu ?

Không phân nghĩa nặng tình sâu

Không rành sự cảnh đuôi đầu làm sao

Con tâm đã lánh đường nào

Mà con ma giận nhập vào đó thôi

Đánh Nam dẹp Bắc một hồi

Múa men nào kể đất trời là chi

Người sầu vật khóc lâm ly

Rõ ràng một cảnh a tỳ gớm ghê. ( CLKS )

Chúng ta hiện có mặt ở thế gian chịu quả báo gớm ghê, khổ vui là do kết quả tự tâm niệm chính mình mà có hiện tướng khổ vui, cuộc sống hiện tại và về sau đều là kết quả từ lời nói, từ suy nghĩ của việc làm hiện tại gọi là nhân quả. Lý nhân quả rất thù thắng, nếu mãi ở trong niệm vô minh thì không bao giờ có quả an ổn được, mãi mãi khổ đau vì đọa lạc trầm luân. Đức Phật vì thương yêu chúng sanh nói rằng “Trong đêm tối ta là người cầm đuốc để chỉ cho tất cả chúng sinh” đây là Địa ngục, kia là Niết bàn, Thiên đường, Ngạ quỷ, Súc sanh, Cực lạc chớ Phật không độ ai cả, phải tự vượt qua mọi gian lao cực nhọc, thường sống với tánh giác là thường sống với Phật, không sống với tâm si mê dốt nát. Bất cứ ai cuối cùng cũng nhận lấy kết quả tự tạo nên của những hành động tốt xấu. Sở dĩ Phật dạy ta nên mở lòng thương yêu người đã hại ta, ghét ta vì biết chắc chắn người có ác tâm này thì người đó phải đọa vào địa ngục không sai, đã thấy nhân hiện tại nơi tâm niệm người đó sẽ là kết thành quả của sự luân hồi vay trả quả báo này không ai cứu được. Nên trí tuệ giác thông thấu biết tất cả pháp giới của sự hành nghiệp mà không thể cứu họ được cho nên khởi lòng từ thương xót tìm cách cứu họ. Là thiện hữu tri thức ta phải thật tu mới đủ trí huệ nhận rõ điều này mà không có lòng hờn oán, muốn giết hại trả thù lại họ, hãy dùng lòng từ bi mà làm nhẹ đi nghiệp mê muội của người tăm tối. Nếu thấy người càng tạo nghiệp ác phải càng thương họ. Nếu lấy sân hận diệt trừ sân hận thì sân hận càng chồng chất, lấy từ bi xóa bỏ hận thù thì sân si hận oán sẽ được hóa giải. Ngược lại sẽ chất chồng thêm nhiều đời nhiều kiếp, ta tu nên nhận định được điều này mới tiêu trừ sân hận và giải thoát ra khỏi sông sầu biển khổ.

Phật xưa có dạy mấy lời

Rằng rừng công đức một thời trồng gieo

Lửa sân nổi dậy đốt thiêu

Như chim mất cánh, như diều đứt dây

Hỡi ai nghe mấy lời này

Có nên tiếc đám rưng cây chăng là

Có nên dẹp lửa cho xa

Có nên nhẫn nhục cho qua tháng ngày

Có nên lấp mắt ngơ tai

Có nên niệm Phật hoài hoài hay chăng.

( CLKS )

Khi khởi lên tâm làm biếng, giác biết không bám níu nuôi dưỡng nó, tự nhũ thầm “sao lại lười biếng”, tự nhắc nhở tự độ lấy ta. Nó rất nhạy bén, nếu có ai chỉ dẫn nhắc nhở gọi đúng tên nó, chỉ dạy, nó lập tức liên kết với niệm sân si có hành động thể hiện tức giận, tự ái, oán hờn, bực bội đó là nghiệp, chướng nạn khó bỏ. Nếu có người nhắc nhở, ta không nên oán ghét, phải nhận xét bằng chánh kiến, chánh tư duy mà thương yêu họ vì muốn cho ta hết khổ nên người sáng tỏ đạo đức, nên kính yêu họ vì đó là người bạn lành, bạn tốt dám chỉ những điều sai trái cho ta sửa đổi. Ta thường quán sát, thường gặp gỡ tâm lười biếng, tu sửa nó sẽ dần dần biến mất. Đây là ma của ngũ dục nên rất mạnh, ta phải kiên trì mới thắng được để bước lên con đường Thánh đạo. Thời gian được tu học rất ngắn ngủi, ta đừng để qua mau mà uổng phí, phải tấn tu đạo hạnh, vượt ra khỏi thế gian, mọi tâm niệm thành tựu đều có sự đồng tình thỏa thuận của ý, thân, nếu kiên quyết giữ chánh niệm mà vẫn không vượt qua, phải đổi phương pháp thực hành, là rửa mặt đi bộ, kinh hành. Khi đã thuần thục sẽ quen dần tạo dễ dàng hơn, lúc tu thiền định cần cứng rắn và nghiêm khắc với chính ta, không chìu chuộng theo một cách mông lung, bay nhảy của tâm niệm.

Khi có sự lo nghĩ bất an cũng phải có chánh niệm không cần hỏi tại sao mà biết rõ, đây chỉ là một tâm hành, hay một trạng thái thay đổi, đến rồi sẽ đi, cần gia tăng định lực, thật tập trung sự chú ý không để tâm chao đảo, gia tăng định lực vào một điều duy nhất để đối trị tâm bất an. Khi biết tâm động loạn nên buông xả tất cả niệm, chú ý vào hơi thơ, nghe đang thở ra và đang hít vô thật rõ ràng, kiểm tra được thì sẽ qua đi trạng thái bất an. Ngồi thẳng lưng cũng là phương pháp gia tăng định lực, biết ta đã có sẵn tánh giác, biết tâm ta hiện cũng có đủ tham sân si phiền não, mê muội, ham muốn, ái dục, bất an, mê ngủ, lười biếng, biết rõ niệm nào là niệm sáng suốt của Bồ tát giúp ta tiến tu, niệm nào là ác ma quấy rối làm ta khổ, mà tu tự thanh lọc, tuyển chọn không lầm lẩn, nhận diện đâu là niệm giác, đâu là niệm ma, mới không sai lạc, khi ra trận chiến đã tuyển chọn và nhận biết binh lính nào của ta, binh lính nào của ma mà đối ứng, không tiếp tay lầm lẫn. Nếu thấy được tâm niệm phiền não là đã kiến tánh. Tại sao ? Vì có sử dụng tánh giác mới thấy được phiền não, kiến tánh là giác thấy được tánh mê, thấy được mê nên đã giác ( Phật ).

Tu phải kiến Như lai.

Tâm nghi ngờ là tường đồng vách sắt cản trở việc tu hành của ta, có người bỏ tu vì tâm này, ta cần quán chiếu nó. Quán chiếu là vô lượng quang hay đại trí huệ là Bồ tát Đại Huệ, là niệm trí huệ tại tâm ta, trí huệ nhạy bén nhanh lẹ thông minh biết tìm cách đối trị tự sanh sáng kiến tìm tòi trong hiểu biết. Phật thành đạo trong kinh nghiệm, trong sáng kiến gọi là hào quang trí huệ, hằng có là trí vô sư. Phật nói rằng, Đạo ta người ngu không thể đến được, chỉ để cho người có trí. Tâm nghi ngờ chỉ là một tư tưởng, không có ngã, không thật thể, chỉ là một tâm hành, muốn biết được nó phải thường đọc kinh điển, nếu không thông giáo lý sẽ có tâm đa nghi, tin mù quáng, nghi chết là hết, nghi không có luân hồi, nghi tu không giác ngộ được, vì không sáng suốt nên phải thường đọc tụng kinh điển thâm nhập kinh nghiệm của Phật theo con đường đó mà tu, mới hiểu biết là sơ phần giác từ đó khởi tu mà đi đến chánh giác.

Bậc trí huệ vì đã miệt mài kinh sách làu thông kinh sử, không thể tu mù bừa bải, người tu bị tâm nghi ngờ khởi lên phải nhờ bậc giác ngộ giải thích bằng chính sự hiểu biết trí tuệ Phật sáng suốt được các pháp, không giải quyết bằng cách tự xua đuổi sự nghi ngờ.

Phật pháp là vô lượng, vô biên, vô cùng, vô tận nên người tu vô sở đắc, không chỗ nào ngừng nghỉ cả, phải hết lòng tu học, chỉ nhất thời không thể biết hết được. Các Bồ tát vẫn còn vi tế vô minh, ta phải tu học mãi vì vậy pháp môn vô lượng thệ nguyện học, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, phải tu hết lòng, không tu bằng hình thức, tâm phải dứt khoác xa lìa danh, lợi, tình, ba chướng này rất khó bỏ dứt, làm việc gì cũng mê danh, mê lợi, riêng tư. Nếu tu mà còn ham thần thông, ảo tưởng, điều này Phật đã cấm các đệ tử vì mê thần thông sẽ hại chân tâm không thể kiến tánh được. Nếu có được thân người không tu, mãi chạy theo loạn trần, sẽ mất tất cả trí tuệ vì mê muội. Người dãi đãi ham danh lợi chắc chắn không phải là người của chư Phật. Tu là đoạn phần kiết sử, đoạn sanh tử, đoạn phiền não vô minh. Kiến tánh là nguyên nhân thành Phật. Tư đà hoàn là phẩm đầu bước vào dòng Thánh, vào Thánh đạo. Theo tinh thần Tịnh độ thì người đới nghiệp được vãng sanh phải ở trong hoa sen vô lượng kiếp chờ nghe Phật A Di Đà thuyết pháp ( thấy được tự tánh ) hay gặp Thiện tri thức dẫn dắt, khai thị thì hoa sen mới nở, nên Tư-đà-hườn là mới bước đến sự mường tượng của tánh giác ( chưa rõ tự tánh ), chưa phải là đủ. Biển cả không chỉ có một tô nước biển mà nước biển nhiều không thể đong lường bằng hạng lượng để biết hết được. Vô minh rất nhiều, phiền não vô tận nhưng không gì là thật cả, tu là tập quen sống với tánh giác. Lục Tổ ngày xưa khi phát hiện tánh giác, kiến tánh rồi phải vào rừng tu 16 năm mới ra độ chúng sanh, giống như người học trò khi đỗ đạt được cấp bằng phải trải qua quá trình thật dài ôn nhuần đầy đủ kinh nghiệm gọi là già dặn kinh nghiệm, mới cứng cỏi mà giúp ích cho mọi người. Nếu thiếu kinh nghiệm là còn non kém không thể là hạnh Bồ tát giúp cho mọi người được lợi ích. Phật pháp cao thượng không thể dùng sự biết tầm thường mà dễ dàng thành tựu, nên đức Phật phải bỏ cả cuộc đời sống trong cực nhọc, hy sinh tất cả để đi tìm chơn lý trải qua sáu năm khổ hạnh, đối diện nơi tuyết lãnh sơn, chấp nhận nhiều cam go qua nhiều chướng nạn suốt 49 năm hành đạo. Nên vào Phật đạo rất khó, người tu phải biết lòng là chí lớn ( Đại Thế Chí Bồ tát ) cương quyết mới giác ngộ sống với tánh giác được.

Tất cả lời dạy của Phật là pháp bảo, là tài sản quý giá của thế gian, nếu bỏ qua thật là nguy hại của kiếp làm người.

Ba-la-mật là thực hành hiểu được Phật pháp, là điều hiếm có và vô cùng quí báu của Trời Người. Tu thường bị vướng kẹt trong tâm tham và tâm si mê, phải chánh kiến tu học mục đích là thoát luân hồi tự độ ta và giúp mọi người ra khỏi vòng lẩn quẩn, không tu bằng tâm ngã mạn tự cao. Ba-la-mật là sự tích lũy hạnh tu sửa cho tâm trong sạch. Ba-la-mật là đáo bỉ ngạn qua bờ bên kia, từ bờ đục qua bến trong, là chỉ vào tâm ô nhiễm được chuyển hóa thanh trong, thanh tịnh. Thanh tịnh không phải là đè ép niệm mà phải dùng trí tuệ quán xét coi tại lòng có trong sạch, có sáng suốt, thanh lặng các dục vọng, tà vọng chưa ? Nếu thấy trong sạch đó là chơn Tịnh, không còn tham sân si là năng lực làm cho tâm ta tịnh khiết. Tâm vẩn đục vì mê muội đem tham sân si, ngã mạn vào làm ô nhiễm tâm. Đã sáng suốt chơn lý Như lai là có nhân thì sẽ có quả, học giáo lý Như lai phải bằng lòng trong sạch, danh nghĩa của Bồ tát là tượng trưng cho tâm niệm cao thượng, dẫn dắt niệm vô minh, tâm niệm phiền não của ta, quyết lòng giáo hóa cứu độ chính tâm ta để thành Bồ tát, thành Phật, còn đi cứu độ cho mọi người nên gọi là Bồ tát, là Phật.

Bồ tát là một con người có tâm tinh khiết trong sạch, đã giáo hóa được mình, không còn tham sân si, ái dục, hằng giác trong giới định huệ, mới có thể giáo hóa chúng sanhh, nên thường tự hỏi lòng thật nghiêm khắc ?

Phận mình đã độ xong chưa ?

Mà toan vào thế rước đưa bộ hiền.

Phải tìm được sự trong sạch qua mọi hành động và sự thanh cao của trí tuệ. Hành động trong sạch là tạo mọi nên hoàn cảnh vui vẻ, thuận tiện, để mọi người nghe được Phật pháp, tâm được an vui hạnh phúc, làm tất cả việc thế gian không vì lợi lạc riêng tư, tất cả vì đại chúng, đem an lành hạnh phúc tràn ngập cho nhiều người đoạn dứt phiền não, thành tựu giới đức, vì cất nhà Như lai phải có giới đức là sự vững chắc đức hạnh làm nền móng. Trang nghiêm là thân Bồ đề, định là hoa quả, là trí tuệ, tất cả đều thành tựu chơn chánh, nhờ chánh tư duy nên giữ được chánh niệm, buông xả tất cả hoàn cảnh không còn niệm vào thế gian, không niệm ôm nắm chấp giữ, nếu ngược lại ta hiện ở trong tà tư duy, tà niệm. Ba-la-mật ( tới bờ kia ) giúp sự sáng suốt tăng trưởng, phát triển đầy đủ mới có cơ hội tu tập Phật pháp lãnh hội lời dạy của Đức Phật.

A-lại-da thức của ta chứa vô số vô minh và phiền não, chất đầy tà vọng nhưng ta không chấp theo dù vọng đó là Thần Thánh Trời Tiên Phật Bà Cậu vì tất cả đều là vọng tưởng, vọng trần, sự vô minh đầy ấp vọng niệm. Tu là thanh lọc cho tâm trong sạch, không còn nghĩ nhớ đến những điều không thật do mê muội phát sinh, được thanh lọc lần lần. A-lại-da trong sạch sẽ là Bạch Tịnh Thức (khởi tạng) nếu tu cho là Phật Tiên nhập vào thân chỉ là mộng mơ vọng tưởng điên đảo.

Bố thí Ba-la-mật ( Bố thí rốt ráo ) :

Bố thí bằng vật chất, nếu thí với tâm niệm mong cầu thì sự bố thí đó chỉ là bằng tâm phàm phu, thí với Tâm hành vô tham, thí hết cả tâm niệm ham muốn. Nếu thí mà còn tâm tham cầu, thí 10 đồng mà muốn được 1000 đồng vì còn đòi hỏi phước sẽ ban trở lại, tâm niệm dùng tiền của, vật chất thế gian mong đổi lại hạnh phúc sang giàu, sự bình an, khỏe mạnh đó là hành động thí mà tâm còn đòi lại những gì to lớn hơn giống như đổi chát, là thí mà tâm còn tư lợi cho mình, tâm không thật thí xả thì tâm tham còn to lớn hơn khi chưa thí, vẫn tìm cầu quyền lợi cho mình, còn tâm niệm luân hồi vì vật thí đưa ra mà vẫn mong được hồi lại cho mình được cái khác. Nên bố thí phải dứt lòng tham không còn níu kéo, bám níu mới là bố thí ba-la-mật. Thí với tâm trong sạch không cần thiết điều gì cho mình mới là chơn thật bố thí vì đã xét lại nơi lòng không còn tâm tham, vô tham là sức mạnh của sự giải thoát. Nguyên nhân sự luân hồi là do lòng tham, nếu làm được việc thì tham danh, tự cao, ngã mạn, sanh tâm ích kỷ, hẹp hòi. Thập nhị nhân duyên bắt đầu vô minh sanh hành, xúc, ái, thủ, hữu, sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não dẫn đầu là niệm tham vì vô minh mà có tất cả nên cần gạn lọc cho tâm hết tham. Còn tham là còn nhơ uế, không thanh tịnh, phải hỏi lại lòng mình, tự tháo gỡ, cởi bỏ những sợi dây xiềng xích này từ vô lượng kiếp đã từng trói buộc.

Cái tham bao thuở cho rồi

Cái mê không may đến một hồi là xong

Dã tràng xe cát biển đông

Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn. ( CLKS )

Có 2 hạng người bố thí :

Hạng bần cùng bố thí: người này chỉ thí sau khi tính toán do dự rất kỹ, chỉ cho những gì dư thừa, cặn bã thừa thải của họ, cho những gì mà thật sự họ đã muốn bỏ.

Hạng thứ 2 là lòng nhân bố thí : cho những gì quý giá nhất, dâng cuộc đời cho Phật pháp, chia sẻ tất cả, cho luôn sự tu học, cho cả thành quả tu hành, nghĩ là đem trí tuệ giác ngộ của mình làm sáng suốt cho mọi người, đem ánh sáng giác ngộ vì lợi ích chung không màng lợi dưỡng, bố thí thật nhẹ nhàng. Hành động bố thí dần dần làm tâm tham dục yếu đi, là con đường rộng rãi, bình thường của các tâm hạnh Bồ tát, đức độ tự nhiên không vướng mắc. Sự ham muốn không thể đoạn dứt một lần mà phải tự khống chế, dần dần sửa sang, không nuôi dưỡng tâm sinh khởi thêm lớn, vì đó là vi tế phiền não. Hạnh Bồ tát phải nương vào lực tu, hành động trong sạch, đức hạnh, giữ giới luật, không thể xây tòa Như Lai trên hư không được sẽ sụp đổ uổng công tu. Giới luật là thềm thang là tay vịnh kiềm chế được tâm, thường dò xét tâm có xứng đáng đức hạnh của nơi hành đạo không? Nếu không giữ giới được thì sự tu hành chỉ là rỗng không, như thùng không đáy, dù đổ bao nhiêu nước cũng không ích lợi gì. Giới là phao giúp người tu đi trên biển khổ Ta bà, nếu buông phao là mất giới luật sẽ gặp chướng nạn khó đến bờ giác ngộ. Phải tránh bàn bạc trò chuyện nhỏ mọn, chấp vào lời đồn đãi vô căn cứ, kiểm soát từng lời nói để tâm được an vui. Lời nói nhã nhặn, tạo sự hòa ái thân thiết với mọi người. Giới là bảo vệ cho chính ta, giúp ta ra khỏi ác nghiệp, không đọa vào tham sân si, gây quả khổ cho tương lai. Khi khởi niệm muốn sát sanh, nói dối, tà tâm, tham lam, nếu tự giác nhớ đến giới luật dừng lại là đã ở trong chánh niệm, đã biết đó là hư tệ, phạm giới tội lỗi. Vậy ai biết được điều này ? Chính tánh giác là trí tuệ là chơn như, Niết bàn diệu tâm, vô cùng an lạc, vì tâm đã được cởi mở trong sạch, rất thư thái, là giá trị của cuộc sống, đó là những biểu hiện tự nhiên của tâm trong sáng. Con người sáng suốt trí huệ sẽ tự có 3.000 oai nghi 8 muôn tế hạnh đã thành tựu được giới luật. Giới luật là thềm bước là nấc thang đưa người tu đến Thánh quả, nếu không giới luật sẽ không có Thánh quả. Sanh tử là sự đại, phải đoạn dứt sanh tử là đường đi của đệ tử Phật, quyết tâm không thối chuyển, tâm phải an định. Định là trong sạch, phải sửa lòng trong sạch mới thâm nhập kinh, nếu lòng không trong sạch sẽ làm ô nhiễm tâm kinh. Tâm định mới có tuệ, có từ tâm trong sạch giới luật nghiêm minh thành tựu Thánh quả, tự nhiên trí huệ phát sanh. Hành động trong sạch là thiền, Thiền hay Tịnh chỉ là một pháp môn cho người tu nương theo mà tu tập, cần phải có nền móng chắc chắn, trang nghiêm. Thiền giống như muốn xây một căn nhà cần có vật liệu tiền bạc, thợ xây, kinh nghiệm, trí tuệ, tài lực mới xây dựng được.

Thiền xa-ma-tha có thiền chỉ, thiền định, chỉ là trực chỉ, tâm định là thiền định. Muốn trực chỉ định tâm phải giữ giới tại tâm vì giới năng sanh định. Nếu không có giới thì tâm niệm sẽ lăng xăng, điên đảo bởi vọng niệm nào cũng mê, mê tiền bạc, mê sắc đẹp, mê địa vị, mê ăn uống, ngủ nghỉ nên không định tâm thức.

Xa-ma-tha có thiền chỉ, thiền định và thiền quán. Tu chỉ, tu định là khả năng tập trung vào đối tượng duy nhất trong thời gian đó, không hề lo nghĩ việc gì, không lờ đãng, khi tâm tập trung đến nhất như nó có khả năng soi thấu các pháp rất mãnh liệt. Nếu có mặt các tâm niệm tán loạn bên ngoài khởi lên sẽ không thấy được tự thể của bản thân và tâm. Nếu vào thiền định tâm không còn tán loạn vì đã thông suốt sắp xếp trước bằng giáo lý, đã được chuẩn bị hằng ngày bằng giới đức trang nghiêm, sinh hoạt trong cuộc sống. Nhân là giới luật hằng ngày huân tu, thiền định là quả của sự tu tập hằng ngày, hành động bằng tánh giác từ cách ăn, ở, ngủ nghỉ, giao tiếp của đời sống phạm hạnh như thế nào. Ngồi thiền là góp nhặt thành quả của đời sống. Nếu trong đời sống không tạo nhân buông xả các pháp thì ngồi thiền không có thành quả. Định phục vụ cho sự hiểu biết của thiền quá. Hành giả đòi hỏi phải thông suốt giáo lý quán thập nhị nhân duyên, biết vì vô minh sanh hành duyên thức, sanh lục nhập ái thủ hữu sanh già bệnh chết, phải thông suốt các nhân duyên này mà quán xét là tu thiền quán. Học Bát chánh đạo để quán Bát chánh đạo là nhìn mọi sự vật bằng chánh tri kiến, chánh ngữ, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh mạng, chánh niệm, chánh định, chánh huệ, phải quán sát những pháp này, học giáo lý đầy đủ quán sát từ giáo lý mới là chánh quán, chơn quán, trí huệ quán, nếu không giáo lý quán theo lời Phật dạy, cứ mãi theo thói quen quán vào việc làm, vào hành động, quán vào tư tưởng bong long của ý nghĩ phàm phu vọng tưởng, vào cuộc đời là tà quán, tạp quán, là tà tư duy, sẽ làm não loạn tâm. Chánh quán là thấy rõ được chân tướng vạn pháp của vũ trụ, biết mọi vật có hình tướng đều vô thường, hư hoại, hợp tan, phải biết vô thường là gì ? Tâm vô thường là sao? Thế nào là thân vô thường? Thế nào là thân bất tịnh? Pháp vô ngã thân vô ngã, cần thông thạo các pháp mới là chơn quán, định quán. Các hiện tướng đều nằm trong dòng sông vô thường tuôn chảy mãi, sanh diệt không ngừng, sáng suốt nên quán biết nó luôn ở trạng thái thay đổi tự nhiên từng sát na, cũng như ta ở trong trạng thái chết đi và sanh lại thay đổi theo sự sanh diệt, một cái nháy mắt ta không phải là người của trước kia nữa mà đã thay đổi bởi các tế bào sanh diệt của thân vô thường. Thay đổi từ da thịt, thay đổi trong ngũ tạng, thay đổi tư tưởng, niệm niệm thay đổi, đầu óc tự biến chuyển sanh diệt, diệt sanh, chết đi sống lại vô lượng vô số lần như vậy. Con người phút này không còn là người của phút trước nữa vì đã thay đổi, sự suy nghĩ thay đổi, lời nói thay đổi, tâm niệm đều thay đổi, tất cả đều vô thường. Tứ đại đều rỗng không vì chấp ngã mê lầm cho là còn ta mãi mãi, không quán sát được lẽ vô thường của cuộc sống, Phật gọi đó là mê lầm, điên đảo. Sự biến chuyển rất thực tế từng sát na chết đi rồi sống lại, thay đổi các tế bào của da thịt, không có gì nắm giữ níu kéo, trạng thái của thân, của hoàn cảnh bên ngoài không gì là thật để ta bám níu giữ gìn, tất cả thường thay đổi, vì mãi ôm ngã mong cầu đòi hỏi muốn như thế này, thế kia không biết thân vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh vô thường, không gì là của ta cả. Đức Phật đưa bông sen khai thị tại Hội Linh Sơn không ai biết là gì ? Ý gì ? Tất cả đều ngơ ngẩn, chỉ có ngài Ca Diếp mĩm miệng cười vì biết tất cả các pháp chỉ là không (vô thường), biết sen đang tươi tốt rồi sẽ tàn hoại, Ngài không bám níu vật vào tâm mà khởi niệm phân biệt, ý Phật như vậy, ý con như vậy, nhưng Phật thì không ý, không niệm, nên con cũng không ý không niệm, con và Phật tâm vốn đồng không hai không khác. Vì mỗi người căn cơ trình độ khác nhau nên Phật dùng danh từ tạm đặt là Tu-đà-hườn, Tư-đa- hàm, A-la-hàm, A-la-hán, Bồ tát và chư Phật, tất cả đều là pháp, vốn rỗng không, không nên ôm chấp pháp nhưng phải chứng ngộ tự tánh mới sáng suốt được rỗng không ( biết rỗng không mà không nhãn giới ).

Biết hoàn toàn thức giới cũng không

Tánh không sáng suốt đại đồng

Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.

Rỗng không mà không hủy diệt một pháp nào vì giác biết sự rỗng không của các pháp vốn như huyễn. Giác ngộ là nhờ biết sự thật các pháp mà thành tựu được pháp không, không chấp vào sự mơ hồ, điên đảo, vọng tưởng. Thân tâm vì vô thường nên không có khả năng đem lại hạnh phúc vĩnh viễn cho ai cả. Nếu cho thân và tâm là hạnh phúc trường tồn, là không giác biết được sự hủy hoại của nó từng giờ từng khắc vẫn hủy hoại, không bền vững, sanh diệt vô thường. Nếu còn quyến luyến thân thì rất khổ đau vì sự thật nó đang tàn hoại từng giây phút. Hiện tại ta đang khỏe bỗng mệt, đang vui bỗng nhiên lại buồn, ngay trong hiện tại không gì là ta cả. Tất cả chỉ là dòng hiện tượng không có ngã, nếu vun trồng trí tuệ bằng chánh niệm, tự nhiên sự sáng suốt sẽ hiển lộ, điều này đòi hỏi người tu phải giữ phạm hạnh kiên cố, phải thành tựu giới luật. Trí huệ phát sinh là do sự thanh lọc hết các pháp bất thiện trong tâm, không còn vướng mắc, đã kiên cố giới đức, đã bỏ được Thập Kiết Sử, trí tuệ luôn hiện tiền ở mỗi con người, trí tuệ và giới luật là một. Nếu giữ giới luật thì sanh trí tuệ nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt mới giữ được giới luật. Nếu mất giới luật là mất trí tuệ, không nhận một vật, một đối tượng nào là ta, tâm sẽ tự tại, tự do, thư thái, nếu đã thấy được cuộc đời là vô thường thì đã bắt đầu đi vào con đường giải thoát. Người giữ được chánh niệm là thể hiện được tâm đại từ đại bi, hoan hỷ, xả bỏ được các tạp chướng mê lầm đều do công hạnh giữ gìn giới đức trang nghiêm thanh tịnh từ bi hỷ xả.

Người tu thiền không vào chánh định vì tác động của tạp niệm nghĩ nhớ bên ngoài, mơ hồ theo tư tưởng do ta thường huân tập từ nơi tiếp xúc phim ảnh, theo đam mê của thói quen, chứa vào A-lại-da-thức quá nhiều, luôn tấc bậc toan tính, nghĩ nhớ, giận hờn, thương ghét của đời sống. Khi thành tựu được pháp tu ta sẽ thấy kết quả các công đức là biết những tâm tệ xấu tham sân si đã giảm dần, giới luật chắc chắn là căn cứ vào lời nói hành động, cử chỉ càng ngày càng trong sạch. Đạo Như lai là đạo vô thượng sáng suốt vô cùng tận, đức độ cũng vô cùng tận, không mê tín dị đoan, đi thẳng con đường chơn chánh, không quanh quẹo bởi danh vị, quyền lợi, không vì tham dục đòi hỏi sai khiến, biết chọn đường ngay thẳng chơn chánh, sẽ đến giải thoát vì đã phá tất cả tà tâm, không tin vào quỷ thần, tà ma ngăn chận sự tiến tu, phải ngăn ngừa lòng ham muốn dâm dục, tuyệt đối phải đoạn dứt nếu không dứt khoát được điều này mãi mãi sẽ luân hồi vào dục giới. Người trí lanh lẹ nhận biết thế nào là tâm tham dục, ham muốn, tự gìn giữ, không còn đeo níu sự giận hờn, trách móc thì tâm thanh tịnh đồng như chư Phật mười phương. Nếu thân ở cõi trần mà tâm không vướng vào sáu trần sanh tâm niệm phiền não là đã giác ngộ ( giác là ra khỏi ngũ dục ). Phật dạy người có con khổ vì con, có vợ khổ vì vợ, có tài sản khổ vì tài sản, có uy quyền khổ vì uy quyền, có nhà cửa khổ vì nhà cửa. Ta không có gì, không gì là của ta nên ta không khổ, phải xét lại coi ta còn mê đắm những gì ? Đang khổ với những gì ?

Người đa nghi thì tất cả việc thế gian và xuất thế đều không thành công. Nếu đối với pháp Phật không ngần ngại, nghi ngờ, quyết lòng xông pha dọn dẹp thì pháp sẽ thành công vì đã có lòng tin vào pháp bảo. Nếu còn nghi pháp sẽ không có niềm tin để học, thì không sáng suốt được khi đối với pháp, nghi ngờ Phật pháp là cội gốc làm ngăn đạo, nghi ngại nơi mình không tin tưởng vào sức tu của mình nên bị trói buộc vào điều nghi ngại đó là tâm lừ nhừ dãi đãi, phải tin pháp Phật tin nơi khả năng chính ta tu sẽ thành Phật.

Phật thành được chúng sanh thành Phật được

Thánh với Phàm chỉ một bổn lai

Khác nhau kẻ tỉnh người say

Chớ ai cũng giống như ai đủ hình.

Tâm bình đẳng không ngăn ngại đạo nào vì đạo nào cũng là pháp. Tổ dạy : “vạn pháp quy tâm”, tất cả đều do tâm tạo, có từng bậc, đó là tùy tâm lượng của chúng sanh có đạo có pháp khác nhau.

Người tu chánh niệm cần sự thinh lặng thực hành vào nội tâm mà chuyên nhất, cần sự thực hành lý thuyết chỉ là trợ đạo cho người tu, để phát xuất hạnh thương yêu, nhịn nhường, nhịn ăn, nhịn tham muốn, nhịn lời nói, thật kiên nhẫn, bền chí, bền gan, chịu đựng can đảm phấn đấu vượt qua. Khi biết tâm phân tán nên nhẹ nhàng kéo tâm trở lại chánh niệm. Phân tán vì nhớ nghĩ những chuyện đã qua hoặc tư tưởng vẽ vời những gì sắp tới, đó là do chất chứa nhiều những pháp thế gian đầy ắp tham đắm, phải làm cho tâm được trong sạch, những tư tưởng trong đầu óc hiện tại đã chứa nghiệp chướng quá nhiều nên xuất hiện hết điều này đến điều khác gọi là vọng tưởng điên đảo. Ngồi thiền biết buông xả vọng niệm là tập trở về tánh giác dần dần vào nhà Như lai là tự quy y Phật ( tự quy Phật tánh chính ta ), hồi đầu thị ngạn đã biết quay về hết lòng quy ngưỡng tánh Phật tại tâm là ta đang thật sự sám hối, phải sám hối trước khi lìa bỏ xác thân, đã biết ăn năn, không còn chạy theo ảo ảnh vọng tưởng tham chấp bọt bóng. Khi bọt bóng vỡ tan biết nó là huyễn nên không đau khổ. Bọt bóng là thân xác, là sự giàu nghèo, danh vị, uy quyền, lợi danh, vật chất. Luân hồi là những vọng trần đã quanh lên lộn xuống từ vô lượng kiếp.

Bổn tánh con người vốn là giác chỉ vì chấp vào huyễn trần cứ cho là ta, mê muội mãi đuổi theo ôm níu càng quên, càng xa lìa tánh giác, khi sóng trần đã yên lặng đã vắng thập kiết sử nơi tâm ánh sáng trí tuệ sẽ chiếu soi thấy tất cả vạn vật, biết chúng là như huyễn, kiểm soát trong thinh lặng sẽ đem đến tâm sự hoàn hảo trang nghiêm.

Tham muốn cho xác thân sẽ cản trở đường tu, Tứ Diệu Đế đã xác minh rõ ràng việc gì là sa đọa, việc nào là giác ngộ, chơn lý của Đức Phật là nghèo tất cả các pháp thế gian, không còn một tư tưởng niệm nhớ vào cõi dục hoàn toàn trong sạch, gọi là sạch nghiệp vì chỗ của Phật là Thường Tịch Quang thường sáng suốt vắng lặng các pháp ô nhiễm không còn niệm nhớ cõi luân hồi, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, A-tu-la đã trống sạch tất cả.

Phật dạy thân là gốc của khổ, có thân là có khổ, muốn thoát khổ phải tu con đường Thánh đạo, phải sống cuộc đời vô nhiễm, bằng cách đi vào con đường chánh đạo không theo đường mê muội của thế tục làm mất chánh niệm. Tu phải có đủ năng lực, định lực, huệ lực và trí lực.

Những yếu tố trong thân gọi là tứ đại, bốn yếu tố tạo nên thân cũng là bốn yếu tố tạo nên quả đất này. Thân người và vũ trụ không khác cả hai đều đang tàn hoại, xoay chuyển giống nhau, vạn vật bên ngoài cũng không khác, đều hòa hợp tạm bợ, lúc nào cũng đang tàn hoại. Kinh dạy “người trí thấy hữu liền biết vô”, tất cả sẽ tàn hoại và mất đi vì “sắc tức thị không” nhìn sắc biết nó vốn không bền, trong sự đang mạnh khỏe luôn có bệnh tật đau yếu chờ sẵn cơ hội, sự sống luôn có già bệnh chết thật chắc chắn đúng như vậy thường theo ta từng sát na, lúc nào cũng có sứ giả đến báo cho ta biết trước những điều này bằng những hình ảnh thật sự của người quanh ta là đau bệnh, chết trước ta, trước mắt ta là sự hư hoại của vũ trụ liên tục là như vậy, vì mãi mê trong giàu sang, ăn mặc, ngủ nghỉ, vui chơi mà ta không thấy được sự thật, khi lửa đã cháy kề bên mà chơn lý của đức Phật là lời kêu gọi giống như ông Trưởng Giả gọi con ra khỏi nhà lửa mà kinh Pháp Hoa đã nói đến, vì mê nên ta vẫn thờ ơ vui đùa theo ngũ dục, không nghe được lời đức Phật khuyên nhắc. Nếu người đi trước già bệnh chết thì chính ta, người thân ta, tất cả con người đều sẽ như vậy. Đây là lời của Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã nói hơn 2550 năm trước, bây giờ vẫn y như vậy ta không tránh khỏi, mọi người đều không tránh khỏi, đó là lời dạy y như thật, trong bài kinh Tứ diệu đế vì nguyên nhân này mà Thái tử Sĩ Đạt Ta giác ngộ lìa bỏ tất cả thế gian mà đi tu, cũng từ nguyên nhân này mà thành đạo, thành Phật. Vậy ngày nay ta phát tâm tu cũng phải từ nguyên nhân này chớ không tu vì lợi dưỡng, vì dục vọng ham muốn, toan tính, tu vì còn tư tưởng niệm vào cuộc đời, niệm nhớ vào lục đạo hay vì lý do nào khác cả. Nếu hiện tại là nhân tu vì lợi dưỡng của cuộc đời thì hậu quả của tham mê là địa ngục đang chờ, vì sợ nhân đau khổ mà tu cho hết khổ, không vì nghèo đói mà trốn tránh cầu mong điều gì khác mới có kết quả giải thoát. Nếu còn tham tài dục, bạc tiền, của cải là cửa ngạ quỷ, cửa súc sanh, địa ngục đang chờ ta. Tự hỏi lại mình có thoát khỏi cảnh này không mà sám hối tu hành cho chơn chánh. Cái chết không chừa một ai nên ta phải đi vào chánh đạo trở về chánh niệm.

Còn rất nhiều sự khổ của tâm, từ tình cảm, chán nản, vui buồn, đau khổ, thương ghét, muốn ưa, yêu thích, tham lam cứ mãi niệm niệm như vậy nên vô minh vẫn chất chồng vô minh càng cao, nghiệp càng dày bởi tham dục sẽ đọa vào tam ác đạo, những diễn biến trong cuộc sống ngày này qua ngày kia vẫn lập đi lập lại gọi là luân hồi. Qua sự ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi, tranh đấu, giành giựt mãi tiếp tục quanh tới trở lui đến ngày tàn hơi kiệt sức rồi chết y như vậy, không hề biết tìm đường giác ngộ giải thoát mà đi, đây là điều chỉ thẳng cho người đang đọa lạc. Ta thường bị thiêu đốt trong ngọn lửa tham sân đó là chơn lý nói lên sự thật mê đắm cuộc đời. Biến chất của lòng tham là tâm si. Gốc là tham nhánh là sân si, mãi nuôi dưỡng càng ngày sum suê, sự trói buộc này ngay trong tâm ta. Trói buộc vì ái dục là thương thân ta và thương thân người khác, khổ đau càng đè liên tiếp không ra khỏi nhơn ngã chỉ vì vô minh. Không thương ai mà chẳng ghét ai là từ bi, mê muội nên mãi bám theo ái dục thường chấp nhận người này là con ta, cháu ta chồng vợ của ta tài sản vật chất của ta mọi việc đều ái nhiễm gọi là si mê, không biết các tướng đều là huyễn ảo có hợp có tan vì thiếu giác ngộ “Dĩ kiến sắc như đồng kiến hổ” thấy sắc đẹp sợ như thấy cọp, phải thường ở trong tánh giác, chánh niệm.

Sự cố chấp vào ý kiến là ý niệm, một trở ngại to lớn làm ngăn chặn không thấy được chân tướng sự thật vì luôn bảo thủ ý kiến của mình, độc tài, muốn mọi người phải theo tâm ý riêng mình. Ta không thể tìm thấy chơn lý khi bị phạm giới, khi lầm lỗi ta giác biết được đang lầm lỗi đó là chân lý, là có trí tuệ nên mới biết được, nên không bảo thủ ý kiến của riêng mình vì bổn lai ( tự tánh ) vô nhất vật hà xứ nhá trần ai. Bổn lai vốn tịch lặng, sáng suốt, không một ý kiến, ý niệm, lời nói nào nên nói là “bất lập văn tự, tuyệt ngữ ngôn” nếu có nói vì lòng từ bi dùng văn tự là phương tiện để thuyết giáo. Không dự tính gì, ý kiến chỉ làm cản trở sự tu học của ta, cần buông xả mới giải thoát. Có ý kiến là có ngã, đã dính liền vào tự ngã cho là tôi hay, tôi giỏi, tôi đẹp, tôi giàu sang, tôi có học, nếu dẹp bỏ buông xả những ý nghĩ này thì giáo pháp sẽ hiển bày, thông suốt bản chất mọi sự vật, không còn trói buộc bởi xiềng xích qua ý niệm vào cuộc đời. Nếu tu mà không thông giáo lý là tu mù, có học mà không giác ngộ chơn lý, không làm chủ pháp thì sự học trên danh từ sẽ là sở tri chướng vì kiến thức không thể kiến giải được thâm ý Phật, chỉ có chứng ngộ tại tâm, thấy tánh mới đồng tánh Phật, nên Phật nói rằng : “Trong 49 năm Như lai chẳng nói lời nào”, nhưng 49 năm Phật chẳng lúc nào nghỉ ngơi mà không thuyết pháp. Thuyết pháp chính là Phật thị hiện có thân mà thuyết pháp, hiện tướng làm gương mẫu cho đời nương theo hạnh đức mà học tu cho giác ngộ giải thoát. Phật cũng có pháp sanh diệt là sanh già bệnh chết, cũng có tướng hư hoại, tất cả đều là sự thị hiện, còn NHƯ LAI vốn thanh tịnh vô tướng, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, bất khứ, bất lai, bất sinh, bất diệt, không màu sắc, lớn nhỏ, không đến, không đi, như như thường chiếu nên Như lai vô sở thuyết mà Phật thì có thị hiện thuyết pháp 49 năm còn để lại cho thế gian Tam Tạng Kinh Điển là pháp bảo cho ta nương theo tu học, phụng thờ. Nếu không chứng ngộ điều này là phỉ báng Như lai, nói oan ba đời chư Phật.

Không thể chấp vào tướng nghi lễ, nghi thức bên ngoài tưởng tượng rằng hình thức cúng kiến sẽ làm ta hết khổ, giải thoát được, không quyền lực nào ở ngoài ràng buộc ta vào sanh tử được mà cầu xin, chỉ có niệm vào sự đam mê là nghiệp trói buộc ta tự đi vào sanh tử luân hồi. Ta chỉ cần buông xả tất cả niệm là tất cả nghiệp đam mê thì sẽ thoát khổ, sẽ chánh niệm, chánh giác, tâm sáng suốt, tự tại, thường, giác trí huệ trùm khắp, vì chỗ của giải thoát là Thường Tịch Quang thường chiếu hằng hữu khắp 10 phương./.

NAM MÔ PHỔ CÚNG DƯỜNG BỒ TÁT.

Thi Kệ

Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền

Là phương diệu dụng giác lần bản tâm

Tri nguyên căn bổn huyền thâm

Trở về nguồn cội thậm thâm nhiệm mầu

Đạo tâm huyền diệu thâm sâu

Thần, Tiên, Phật, Thánh, ngục sầu do tâm

Quán Âm nghiệm xét không lầm

Niệm nào nhớ Phật, niệm nào nhớ ma?

Niệm nào là nghiệp trần sa?

Niệm yêu, niệm ghét, niệm ta, niệm người

Niệm tham, si, ái nào vơi

Niệm toàn ngũ dục, tả tơi tấm lòng

Thế nên Bồ tát dày công

Giữ gìn chánh niệm thanh trong cõi lòng.

Sông sầu, biển khổ mênh mông

Căng bườm Bát nhã chơn không trí mầu

Từ bi hỷ xả bắt cầu

Sẵn sàng chờ kẻ quay đầu bước qua

Giáo truyền Phật Tổ Thích Ca

Dạy người lữ khách đường xa nhớ nhà

Dù thân hiện ở Ta bà

Mà tâm vô nhiễm là nhà Như lai

Chơn tâm diệu lý hoằng khai

Giúp đời thoát tục bổn lai phục hồi

Hỏi lòng sao lại nổi trôi

Biển tâm loạn động vì mê quá nhiều

Dập dìu tài, sắc, ái, yêu

Là ma ngũ dục tiêu điều Phật gia

Vô vi len nhẹ lòng ta

Kìa ! Chư Bồ tát giúp ta phục hồi

Ai tham đắm? Ai lầm rồi?

Thì ra ngũ uẩn tạm duyên gá thành

Ấm Trần, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành

Thức kia hóa hiện, chỉ rành đường mê

Chấp thân tham đắm bộn bề

Mê thân bỏ Phật chẳng hề viếng thăm.

Di Đà tự tánh uyên thâm

Trì danh nhớ Phật, quang lâm cửa thiền

Quán Âm nghe rõ cơ duyên

Tầm thinh cứu khổ khắp miền cõi tâm

Quyết tu chí nguyện cao thâm

Hồng danh THẾ CHÍ tại tâm đợi chờ

Tam Thánh Phật mong chờ đón rước

Phật tại tâm còn ước mơ chi ?

Sửa lòng trong sạch diệu kỳ

Chơn không,Diệu hữu tịnh lòng hiện ra

Chơn là như thật không xa

Không là bất diệt,chẳng đau chẳng sầu

Không thay đổi, không cạn sâu

Không già, không chết, không sanh luân hồi

Khổ,Tập, Diệt, Đạo đã rồi

Không còn bám níu chấp vào huyễn chơn

Diệu minh thanh lặng thường chơn

Trải vô lượng kiếp, không sờn, không tăng

Cũng là diện mục thường hằng

Nhãn tàng chánh giáo vốn dòng Thiền tông

Tịnh tông tự tánh thanh trong

Di Đà bổn tánh PHÁP THÂN chính mình

Không còn ngụy, tạm gọi chơn !!!

Chẳng còn thiên lệch không phân Thánh Phàm

Dù thân ở cõi muốn ham

Tâm không ô nhiễm không tham sự đời

Không mê, không chấp cuộc đời rỗng không

Chơn không sáng suốt đại đồng

Chiếu soi vạn loại chẳng là không đâu ???

Nếu ai thông thấu đạo mầu

Hiển nhiên khai mở một bầu trí minh

Chơn không sáng suốt muôn hình

Hiển bày diệu hữu đẹp xinh tại lòng

Diệu hữu vốn đức lành cao thượng

Là báu linh vi diệu cõi tâm

Hào quang rực sáng Quán Âm

Không là diệu hữu, hữu là chơn không

Vì ta cứ mãi đợi mong…

Tưởng vô số niệm thọ vương nghiệp trần

Tu là thanh lọc dần dần

Xả ly vọng niệm chuyển lần về không

Vô sở đắc không mong chi cả

Đáo Bồ đề tuy có cũng không

Chấp trần nên có nên không

Chơn như bất diệt tịnh, minh sẵn rồi

Không chẳng bến cũng chẳng bờ

Sẵn sàng an ổn không chờ không mong

Giác chơn thôi thúc cõi lòng

Bàng hoàng chợt ngộ mơ màng thế gian

Sẩy chân trược bước sa đàng

Say sưa ngũ dục, lang thang đọa trầm

Bổn sư tịch lặng diệu âm

Quán vô sở trụ tâm an tịnh lòng

Vô lượng kiếp mãi long đong

Nhờ đền trí huệ đục trong soi đường

Đại hùng, đại lực, tình thương

Có chư Bồ tát náu nương dặm đường

Dắt dìu giáo dỗ dạy khuyên

Qua bờ giác ngộ vô phiền, vô ưu

Vang vang tiếng vọng ngục tù

Gọi kêu sanh chúng, ngục tù xóa tan

Trở về thế giới bình an

Không còn điên đảo bất an não phiền

Tự tay tháo gỡ xích xiềng

Nương thân tứ tại trần duyên tu hành

Niệm Phật phải nhớ thật rành

Tự làm chủ NIỆM tấm lòng mới an

Đó là buông xả thế gian

Không còn niệm tưởng mơ màng muốn ham

Tự quy y Phật xả phàm

Niệm vào giác tánh vô vàng bảo châu

Cuộc đời gẫm lại bao lâu

Trở về chánh niệm tóm thâu việc đời

Không nghĩ tưởng không vẻ vời

Không mơ, không mộng cuộc đời thanh trong

Tánh linh tự nhắc cõi lòng

Tự mà tháo gỡ chớ hòng nhờ ai

U mê là nghiệp đọa đày

Tánh minh như Phật là ngày hồi quy

Quy y tánh Phật kịp kỳ

Tự quy y Phật viễn ly duyên trần

GIỚI HƯƠNG lan tỏa xa gần

ĐỊNH HƯƠNG sâu vững bền lòng không lay

GIẢI THOÁT hết nạn trần ai

GIẢI THOÁT TRI KIẾN HƯƠNG bay khắp miền

Sống cùng chánh niệm cần chuyên

Tu ngay tâm niệm lụy phiền mới vơi

Tu là thượng giác không lơi

Muốn về Phật quốc cõi tâm thanh nhàn

Trang nghiêm tâm niệm là vàng

Ấy là gìn giữ báu mầu cõi tâm

Cực lạc chẳng ở xa xăm

Trí minh có Phật quang lâm hiện tiền

Hỡi chư đạo hữu cùng duyên

Quay về chánh niệm là thuyền rước đưa

Tâm sen hương tỏa Phật thừa

Đưa người Thánh thiện sớm trưa tịnh lòng

Muốn thanh thoát niệm thong dong

Nhất tâm chánh niệm dày công hành trì./.

Long An, ngày 20 tháng 05 năm Tân Mão

Người biên soạn

Cư Sĩ Bồ Tát Giới Như Thánh

Kính bút

Phương danh Quí vị phát tâm ấn tống cúng dường

VỰA GẠO HAI THẠO

( Bắc Đông – Long An )

Phật tử : THIÊN THẢO

THIÊN THUẬN

Nguyện đem công đức ấn tống kinh này cầu nguyện cầu cho kẻ âm siêu thoát, người dương nhẹ nhàng cùng pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

CHÁNH NIỆM

Lời giảng : Tỳ Kheo Thích Minh Đức.

Biên soạn : Cư sĩ Phật tử Như Thánh.

TỔ IN ẤN VÀ PHÁT HÀNH KINH SÁCH THỰC HIỆN

Địa chỉ : PHOTOCOPY SĨ PHÚ, Tổ 3, Khu 1, Thôn Phước Thành, Xã Tân Hòa, Huyện Tân Thành, Tỉnh BR-VT.

Điện thoại : 0972. 008727

Chịu trách nhiệm xuất bản : TK. THÍCH MINH ĐỨC

Biên tập : CƯ SĨ PHẬT TỬ NHƯ THÁNH.

Sửa bản in : CHƠN MINH.

Trình bày : CHƠN MINH.

Bìa : TÂM PHÚC.
...TRỞ VỂ
THÔN PHƯỚC THÀNH-XÃ TÂN HOÀ-HUYỆN TÂN THÀNH-BÀ RỊA VŨNG TÀU