Get Adobe Flash player

 

Phần Nhân Thừa


Lời giảng : Tỳ Kheo Thích Minh Đức
Người soạn : Như Thánh

Lời Người Soạn

Kính thưa quý đọc giả!

Nếu hiện tại ta có mặt nơi cuộc đời, có được lục căn đầy đủ, toàn vẹn con người được thân thể lành lặn. Trong kinh Phật dạy, đời trước đã từng tu giữ gìn năm giới, hạt giống con người đã được săn sóc, nuôi dưỡng chu đáo. Nhìn quả hiện tại sẽ biết nhân đời trước, dù có thân người nhưng nghiệp báo, phước họa không đồng, vì chủng tánh khác nhau. Nếu hiện tại lòng ta đang xây dựng chủng tử là giống người, hạt giống được chăm sóc phát triển mạnh mẽ, thường thích làm điều thiện lành, hành động phát xuất từ tánh hạnh tốt đẹp, không có ý làm hại những người quanh ta, không gây phiền não, đau khổ, bất an cho ai, lòng luôn hướng về ba ngôi Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng, tự nhớ và giữ gìn Tam Quy, Ngũ Giới, không sát sanh hại mạng chúng sanh, không tham lam, nói dối, không tà dâm, không cờ bạc, rượu chè, đây là pháp giữ gìn giới luật, cũng là con đường của nhân đạo. Nhân đạo là cõi dễ dàng cho sự tiến tu, nâng trình độ cõi tâm con người tiến lên Thánh quả. Khi mới hướng tu là sơ phát tâm, cần phải nương giáo lý nhà Phật, học thông giáo lý là học lời Phật dạy, ứng dụng thực hành kinh nghiệm của Đức Phật, giúp ta tu sửa bản tâm. Bước đầu học Phật phải biết rõ Ngũ Thừa Phật Giáo, là phương tiện giúp người phát nguyện tu đi đúng chơn lý, không sợ lầm đường lạc bước. Ngũ Thừa là Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa.
CLICK ĐỌC TIẾP...

Kính thưa quý vị ! Đây là lời soạn, kết tập viết lại bài giảng của Sư Phụ, sau khi giảng cho khóa Sơ Cấp Phật Học Phổ Thông tại Thiền Viện Minh Đức. Vì người soạn thấy đây là những kinh nghiệm tu hành phát ra từ lời giảng, là những điều đem lợi ích cho chính mình và sẽ khai sáng dẫn đường cho người mới phát tâm tu học Phật, không đành bỏ qua, mất đi vào quên lãng, nên dù lời văn bình dị tôi cũng cố gắng ghi lại, thành tâm gởi đến cho những thiện hữu gần xa cùng duyên, đồng tiến vào đường tu học Phật, đi đúng lộ trình mà Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni đã dày công vất vả khai vẹt, mục đích mở mang trí tuệ cho tất cả chúng sanh đồng trọn thành Phật đạo.
Phật pháp vô biên, ý kinh sâu kín, lời giảng vi diệu, nên dù cố hết sức biên soạn cũng không thể tránh điều sai xót, ngưỡng mong chư Tôn Đức và chư Thiện Hữu gần xa từ bi hoan hỷ. Người soạn xin nhận mọi đóng góp cao thượng, để khi tái bản quyển sách thêm phần đầy đủ, tốt đẹp.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Người biên soạn
Như Thánh
Long An, 25/04/2012



NHÂN ĐẠO

Trong quá trình tu nhân học Phật cần xét kĩ pháp tu. Dù ta vẫn thường đến chùa, được gần Thầy Tổ, tụng kinh, niệm Phật, ngồi Thiền hay thực hành tu bất cứ pháp môn nào, mà không thấy được bản tánh chính mình, để tự biết tu sửa, thanh lọc tâm tánh, thì giống như ngài A- Nan thời xưa, từng là thị giả cận kề bên Phật, mà chưa ngộ được bản tâm, tuy được gần bên Phật mà tâm tánh xa cách Phật muôn trùng. Khi bắt đầu hướng tu là sơ phát tâm, cần nương vào Phật học phổ thông, để thông suốt chân lý nhà Phật. Phổ là phổ biến, truyền rộng cho trí sáng ra, Thông là thông suốt sáng biết rõ giáo lý. Bước đầu học Phật là tìm hiểu, tư duy về Ngũ Thừa Phật Giáo, gồm năm thừa. Trung Hoa gọi là Thặng, là xe, phương tiện dùng chuyên chở tất cả pháp.
Năm thừa gồm: Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa.
Một con người, nếu mang tâm niệm của loài ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, ba cõi này nằm dưới Nhân Thừa. Nhờ nương vào giáo lý dẫn tâm mê loạn ra khỏi ba đường ác, nhờ xe nhân thừa chở các niệm mê, chuyển hóa lên thành hạnh tu chơn chánh. Nếu tâm niệm người còn cõi Nhân Thừa thì đời đời, kiếp kiếp vẫn là con người, luân hồi mãi mãi. Nếu nâng trình độ, là tinh tấn vượt lên, tu hạnh Thập Thiện, là cõi tâm người của Thiên Thừa, là cỗ xe đưa người đến cõi Trời, vượt thêm nữa là cõi Thanh Văn Thừa. Ba cỗ xe này chở tâm niệm, nâng từng bước lên hàng Thánh quả. Cuối cùng là quả A- La- Hán, thứ tư là Duyên Giác, quả Bích Chi Phật và quả thứ năm là Bồ Tát, đó là Ngũ Thừa Phật giáo.
Ta học Phật, điều quan trọng cần biết là cách hướng tâm, biết rằng chánh kiến mới sáng suốt, không lầm đường lạc hướng. Phật dạy trong kinh Pháp Hoa rằng “Ta vì đại sự nhân duyên, mà thị hiện đến thế gian để dẫn dắt chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Có nghĩa là Phật đến cuộc đời chỉ vì một duyên lớn. Tại nước Ấn Độ thời bấy giờ có rất nhiều sự tín ngưỡng, nhiều Tôn giáo, nhưng chưa có Tôn giáo nào khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, là thấy được tâm tánh chính mình. Muốn tri kiến Phật, cần dụng công tu tập, công phu tinh tấn, tự sáng suốt sống với bản tâm, vượt qua mọi cám dỗ cuộc đời, giữ hạnh đức ngay đời sống là từ, bi, hỷ, xả mới thấy được bản tâm. Mỗi con người đều có tự tánh Phật, nhưng phải biết tự tánh Phật là gì ? Luận giải đại ý là khi ta chưa khởi niệm tham, chưa có niệm giận, chưa có niệm ghét, chưa có niệm thương, chưa mê si, thì lúc đó tự tánh hiện là vô nhiễm, hiện trong sạch, thanh tịnh. Bản thể vô nhiễm thanh tịnh này mỗi người đều có sẵn, vốn tự nhiên, vắng lặng thường chiếu, nhưng vì tập đế là thói quen hằng huân tập của cuộc đời, từng quen sống bằng tâm niệm mê loạn, là tánh hay hờn giận, tánh ghét, tánh thương, tánh tham muốn, tánh đòi hỏi cầu xin, tánh ích kỷ đua tranh, tánh tự cao ngã mạn, vì không thông hiểu giáo lý, nên mạng sống mãi mãi là tâm niệm duyên theo vọng nghiệp, là theo cảnh ác, theo hằng hà xa số dục niệm rất phức tạp, không sống được với tự tánh sẵn có, vì vướng bận pháp đời. Sự khổ lớn nhất của con người là khổ vì thân xác, vì lầm nhận thân là thật của ta, bởi chấp chặt ta, nên tâm đòi hỏi càng lớn, lúc nào cũng muốn được đầy đủ nhu cầu, để phục vụ, thỏa mãn cho xác thân. Theo thói quen cuộc đời, lớn lên phải có vợ, có chồng, đòi hỏi ăn cho sung sướng, ở phải sang trọng tiện nghi. Vì nhu cầu đáp ứng cho tâm tham, tìm cách đạt được những gì cung phụng, thích nghi cho cuộc sống, để vun đắp nuôi dưỡng xác thân, mà quên bỏ bản tánh chơn như thanh tịnh. Bậc giác ngộ cuộc đời, biết rành các pháp là huyễn tạm, không thật, nên không còn khởi niệm đòi hỏi, biết thân là tạm thời, không bền chắc. Đời người như chiếc lá, mọc từ hạt ra mầm non, xanh rồi cũng già, lá héo úa, vàng sẽ rơi rụng theo luật tuần hườn, định luật từ con người, vũ trụ, vạn vật đều y như vậy, rất tự nhiên thanh tịnh. Vì lầm mê, ta không dám chấp nhận sự thật này, cứ cho là ta trẻ mãi, sống mãi, đó là quan niệm thường kiến, hiểu bằng tà kiến nghịch lý nhân duyên, mới sanh thì non, rồi đến già, héo úa rồi chết, trở về với tứ đại, hiểu như vậy là thuận theo đúng lý nhân duyên, các pháp tùy duyên sanh, tùy duyên diệt. Thân là sự hợp tan của tứ đại, đầy đủ theo vũ trụ là Thất Đại, gồm chung là đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức đại. Nếu chấp thật có thân, là càng chất chồng thêm nhiều nghiệp đòi hỏi, tội lỗi chất đầy, vì ưu, bi, khổ, não. Nếu đã rõ biết thân là tạm huyễn, hợp tan, tùy duyên mà biến hiện thì không còn thân nào để làm tâm khổ, không tham cho ai nữa. Vì lo phục vụ cho sắc huyễn nên muốn ăn nhiều, mặc đẹp, muốn được người hầu hạ xác thân. Thú vui con người là thường ưa thích, ham muốn tình yêu, đòi hỏi được tình cảm vợ chồng. Do niệm ái càng sanh, càng nhiều sự khổ, nghiệp chất chồng, nghiệp khổ con người thường luân hồi, xoay vòng theo biết bao nhiêu niệm ham muốn, thích ưa, không biết bao nhiêu cho vừa, cho đủ. Đã muốn cho ta, còn muốn cho người thân của ta, muốn cho con ta, chồng ta, vợ ta, cha mẹ, anh em ta. Tự chấp pháp huyễn cho là của ta, mà sanh niệm lừa dối, bảo thủ những gì thuộc về của ta, cái gì cũng là của ta, cứ lặn hụp trôi theo cái ta bất tận, không trở về được với bản tánh chơn không. Mỗi đạo đều có giá trị riêng, chỉ khác nhau sự sáng suốt, trí tuệ hiểu biết rộng lớn hay nhỏ hẹp mà thôi. Vì thời đó nước Ấn Độ có 96 mối đạo, nên đức Phật mới thị hiện đến cuộc đời, để sửa chữa cho tâm người chơn chánh. Đạo tuy nhiều nhưng mục đích chưa hoàn hảo, chưa đem an vui hạnh phúc đến cho tâm người. Ngài đến cuộc đời để chỉ dạy cái toàn chơn, toàn giác, dẫn tâm người mê muội trở về tự tánh chơn thật bất hư, tự biết sử dụng trí tuệ, thông suốt chính mình, bảo vệ đời sống thuần thiện minh bạch, biết xây dựng sửa chữa cõi tâm, là Quốc Độ trang nghiêm thuần tịnh. Việc làm bên ngoài thế gian là điều thiện, để đối đãi cái ác chưa đúng là chơn thiện, vì chưa tu sửa tâm nên đất tâm là tâm địa chưa hoàn mỹ, chưa có trí tuệ, nên đức Phật mới ứng thân, dạy cho chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Là sự giác ngộ chánh minh chơn thật, không còn khởi sanh một ý niệm tranh đua, hơn kém, phân biệt, thấp cao, tốt xấu, đó là đạo của tâm vô thượng. Vô thượng là không còn đạo nào cao hơn nữa. Chánh là chơn thật, chánh minh. Đẳng là đẳng cấp. Giác là trí tuệ sáng suốt rộng lớn, rất thanh tịnh. Hằng ngày, ngay đời sống ta mượn tướng là thế gian pháp, sống bằng pháp hữu hình rất ít mà sống bằng vô hình rất nhiều. Pháp vô hình là sự suy nghĩ, tính toán, lo toan, hồi hộp, vui buồn, sợ sệt v.v... đủ thứ pháp. Niệm niệm tuôn chảy đều là vô hình rất nhiều. Tất cả đều không hình tướng, luôn luôn biến hóa, luân hồi sanh diệt ngay đời sống, thật nhiều. Phật nói bằng con số bất tư nghì là vô lượng, vô biên, vậy mà ta chẳng quan tâm để ý, cứ mãi lo phục vụ nô lệ nuôi cho xác thân, chịu nô lệ phục vụ nuôi dưỡng cho thân huyễn mộng, chịu sự sai sử của Ngũ Dục là sắc, tài, danh, thực, thùy. Các pháp này đều là vô hình. Pháp hữu hình là thân xác, đến vật chất có tướng hình đều là vật vô tri, là dụng cụ không biết gì cả. Vô hình biết vui buồn, đau khổ, ái yêu, ưa thích hay chán chê, lo âu, biết mệt, biết khỏe… là các pháp trong vô hình, thường thiên biến vạn hóa. Do niệm niệm liên tục hóa hiện từ tận hư không, biến khắp pháp giới mà sanh có pháp, có chư Phật, Hiền, Thánh, Tăng hay A-Tu-La, địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, tùy niệm dính trụ mà hiện sanh có pháp giới. Nói về tâm, có chuyện kể thời Đức Phật, khi Phật nghe ngài Ca Diếp bệnh, Đức Phật đến thăm. Phật hỏi “Con đau có nặng lắm không?”. Ngài Ca Diếp trả lời “Bạch Thế Tôn ! Con đau nặng lắm”. Phật hỏi “Con có chịu nổi không?” Ngài Ca Diếp nói “Bạch Thế Tôn ! Con không chịu nỗi”. Rồi Phật từ giả ra về và dặn rằng “Dù thân con đau, đừng để tâm con đau”. Vừa nghe Phật nói, ông liền định tỉnh quay vào tâm, thấy thân xác có đau nhưng tâm không đau. Tâm đau vì niệm khởi duyên theo sự hoảng sợ, vì nghĩ thân sẽ chết, tinh thần sa sút nên tâm đau vì tâm nhiều sợ sệt. Khi nghe Phật nói, ngài Ca Diếp quay vào tâm, chợt định tỉnh, đứng dậy đi bình thường. Đó là điều trọng đại, con người vì thường duyên theo hoàn cảnh, theo trạng thái thay đổi của tứ đại mà có vui buồn, lo âu, sợ sệt làm tâm não loạn, điên đảo, mất đi sự an ổn, mất chánh niệm. Phật thị hiện, mục đích dẫn dắt ta ngộ nhập lại bản tâm. Sau khi hết duyên tứ đại tan rả là bỏ sắc thân, ai ai cũng trở về vô hình. Nếu mê loạn, vẫn xoay vòng trong niệm thức, ở trong thức đại. Bậc sáng suốt thì buông xả hết tâm thức, không niệm trụ vướng vào nghiệp thức, nên tự tại giải thoát, vì biển thức đã yên lặng thanh tịnh, tất cả tâm niệm đều trở về thức đại. Giống như ở thế gian, khi trồng cây, ta chưa biết lá, hoa, trái ở đâu vì tất cả đều ở trong vô hình, bất ngờ đủ duyên theo thời tiết sẽ hiện ra có lá, hoa, quả. Con người cũng vậy, khi cha mẹ chưa sanh vậy ta ở đâu? Vẫn từ vô hình, do có duyên theo niệm ái yêu của cha mẹ, ta cũng niệm cộng theo, sự kết tựu do hội đủ duyên mà sanh có thân là sắc pháp. Ta từ vô hình đến, mượn tướng con người do kết tựu các duyên từ bảy đại, thì tất nhiên khi bảy đại tan rả sẽ tan hoại sắc thân, là trở về với vô hình, có nghĩa theo thế gian gọi là chết. Chết chẳng về đâu cả, từ vô hình đến, tất nhiên sẽ trở về vô hình, tùy tâm niệm mà thọ nhận nghiệp báo thiện hay ác. Do nhân mà có duyên, tất cả con người, vạn vật khi hết duyên đều trở về đất nước gió lửa. Ta không hiểu biết sự thật này vì vô minh, không hiểu nhân quả thì mãi mãi luân hồi trong đọa lạc. Con người phước lớn nhất là giác ngộ, sống đúng, hành động đúng, biết đúng. Khai thị là mở được mắt trí huệ, thấy bằng chánh kiến, thực hành sáng suốt tu sửa, mới không sai lạc pháp tu. Cần sáng tỏ giáo lý, thông hiểu nhân duyên. Miệng ái ngữ là nói lời lành, bố thí là hành động thiện, ý niệm từ, bi, hỷ xả, đại bố thí xả là vui vẻ, xả bỏ dần dần những tâm niệm độc ác, nóng nảy, sân si, tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn. Mạng sống là chơn lý, giáo lý Phật, khi đã thông suốt thì tâm là giáo lý gọi là tâm đăng, đèn trí tuệ soi sáng, tỏ rạng đường đi cho người tu, quay lần về bến giác. Giáo lý là phương tiện mở cửa trí tuệ, đem đến cho chúng sanh đời sống tự tại an lạc. Ta đừng có quan niệm chấp rằng, tu là chỉ tụng kinh, gõ mõ là đủ, mà cần thâm nhập hiểu rõ lời Phật dạy trong kinh điển, hiểu cách Phật dạy niệm Phật, tọa thiền bằng trí tuệ tự giác. Niệm Phật, tọa thiền, tụng kinh bằng giới luật, tự gìn giữ bản tâm, không còn phan duyên vọng động, não loạn vì chao động biển thức, làm bản tánh mất tự nhiên, là bỏ quên Như Lai, đuổi theo ảo mộng. Học hỏi trí thức bên ngoài rất dễ, Thầy Thế Gian có thể dạy được, nhưng học giáo lý để thông thấu lời dạy của Bậc Đạo Sư rất khó, vì chơn lý Phật rất sâu kín, thậm thâm, siêu việt vô cùng, rất khoa học và thực tế. Học Phật tự giác ngộ, nhờ đủ duyên, tinh tấn, kiên trì tu sửa bản tánh chính mình, lập hạnh buông xả dục vọng giống như Đức Phật, giữ hạnh đức ngay cuộc sống. Nếu duyên đến là có người làm ta giận, họ hiếp đáp, nói oan ức, dùng lời thô, sỉ mạ ta, thì lập tức nhớ giáo lý, cần sáng suốt nhẫn nhịn, biết rõ việc gì đến cũng có nhân duyên, các pháp đủ duyên tự đến rồi cũng tự đi, thì đó là giác. Đang nhớ và hiện sống với bản tánh thanh tịnh vốn sẵn có tại lòng là ta đang giác, tức đang niệm Phật, nhớ Phật tại lòng ta, không phan duyên niệm theo ngoại cảnh bên ngoài, không vướng trụ, dính mắc niệm vào giận buồn, ganh ghét, oán hận, bất mãn, bất bình, là tập buông xả bố thí, trả lại những gì của cuộc đời, trở lại cuộc đời, lòng ta không chất chứa nặng mang, nên không còn duyên theo nghiệp lụy, pháp trần không trói buộc được tâm là hạnh giải thoát. Hạnh tu tập bằng pháp Thiền Định, sẽ an ổn cõi tâm vì được tẩm ướp bằng giáo lý. Tự quán xét, tự hỏi lại lòng tham là gì? Tham có thật không? Tại sao phải tham? Niệm tham này từ đâu mà có? Tu là tự phát nguyện, khắc phục, xả bỏ dần dần nhiều lúc, nhiều ngày, nhiều năm là tự trang nghiêm tu sửa lại bản tâm, sửa bằng quang minh sáng suốt trí tuệ. Quyết lìa bỏ vô minh là đã thấy tội lỗi, tội ác. Tự quán xét, hỏi lại lòng là tự quán lại âm chất, ý niệm đạo hạnh ta ngay thế gian, là Quán Thế Âm. Tìm lại những niệm si mê là vô biên chúng sanh tự tầm thinh, nghe lại tiếng lòng ta đang đau khổ mà nguyện cứu khổ các chúng sanh. Nam Mô Quán Thế Âm Tầm Thinh Cứu Khổ Nguyện, ta tự hỏi lại ta, sao những tâm niệm này là xấu ác, mà cứ mãi nuôi dưỡng, không dũng mãnh lìa bỏ nó. Tu là quyết khắc phục, bỏ cho được những gì còn xấu ác, chấp nhận hạnh viễn ly, xả bỏ tất cả vọng tưởng còn nghĩ nhớ về thế gian, không niệm vào đòi hỏi riêng cho bản thân. Sửa từ sự ăn mặc, ngủ nghỉ, tự kềm chế, xả dần mọi dục vọng đòi hỏi muốn được cuộc sống tiện nghi. Nếu còn giữ những tâm niệm này thì thế giới của tâm hiện là cõi của dục giới, cõi thấp hèn. Vì tâm còn đầy niệm tham dục, thấp hèn là còn đua tranh, giành giựt, ích kỷ, tham lam, sân nộ, thì hiện tại tâm còn là nhân gây điều tội lỗi. Tu là nâng cho tâm vượt lên, qua khỏi cấu nhiễm của cuộc đời, nâng từ Nhân Thừa lên Thiên Thừa, Thinh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và đến Bồ Tát Thừa. Thường quán xét vào cõi tâm, nếu hiện tại thấy còn nghĩ nhớ duyên theo thế giới thấp hèn, phải tự biết ta không xứng đáng là đệ tử Phật. Vì muốn chỉ cho chúng sanh thấy rõ tâm, Phật phân ra dùng danh từ, đặt tên cho nhiều thế giới, gọi tên cho từng cõi, là Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Ba cõi này nằm trong Nhân Thừa và Thiên Thừa.
Cõi Dục Giới đầy ấp lòng tham muốn. Có ba tầng, nếu còn tham nhiều thì cõi Ngạ Quỷ ; phiền não là cõi Súc Sanh ; si mê là cõi Địa Ngục. Nếu tâm còn trụ mãi các cõi này, không vượt lên được đến cõi sắc giới hay vô sắc giới, là cứ ở mãi cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Các cõi này vô hình nơi tư tưởng của chúng sanh, nổi trôi trong biển thức, chứa tràn ngập mọi toan tính, suy nghĩ, ham thích... Các niệm thức này, khi tứ đại tan rã, sẽ là nghiệp cuốn hút, là nghiệp dẫn tâm vào cõi vô hình, nhập theo thói quen là tập đế ngay đời sống hằng ngày. Ta thường niệm nhớ rất rõ ràng, không đợi đến khi chết mới vãng sanh, vì địa ngục tại thế gian, Niết Bàn cũng tại thế gian. Địa ngục là tâm đang si mê, sân hận, bực tức, oán thù, ghen ghét, cùng cực. Các niệm vô hình này đều ở trong tư tưởng, xoay vòng biến hóa trong tận hư không. Nếu hiện tại cõi tâm là thế giới của ba đường ác, thì vừa bỏ thân xác, niệm niệm liền biến nhập vào cõi này, do nhân mà hiện quả. Nhân là tâm niệm nào thì nghiệp quả y như vậy. Phật tức tâm, ngay hiện tiền là tâm thanh tịnh, tức thì tâm đó chính là tâm Phật. Niết Bàn cũng chính tại tâm Phật, thì đó chính là cõi Phật. Nếu ngay hiện tiền tâm là ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục thì tâm đó tức cõi tham, sân, si, quả y như vậy. Ngạ quỷ là tham, súc sanh là sân si. Vậy si là gì? Là niệm vào cõi tham, không bỏ được tánh tham, mọi dục vọng đều mê không bỏ được. Ba tâm này là ba cõi thấp hèn, hạ tiện. Xả bỏ được gọi là siêu thăng, không còn sa đọa vào ba cõi ác. Tọa thiền là tìm thấy được những tâm niệm này để buông xả, gọi là tu sửa, gạn lọc bản tâm, thường kiểm tra, rà sát tâm, tự thấy lấy tâm mình. Thực hiện được pháp này là hạnh viễn ly, gọi là hồi đầu thị ngạn, đã bỏ cõi dục thấp hèn, qua bờ giác ngộ. Tâm giác ngộ mới là đức lành cao thượng, mới có pháp cao thượng, để đối xử với mọi người. Nếu tâm địa còn thấp hèn, đê tiện, chỉ đem đến mọi người sự phiền não, bực bội, buồn phiền. Khi tâm qua được cõi dục giới là giữ ngũ giới không sát sanh, không trộm cắp, không tham lam, không nói dối, không chè rượu, cờ bạc, năm giới này là căn bản cho người tu Nhân Đạo. Muốn vượt lên Phật Đạo, cần tu Nhân Đạo, Thiên Đạo, Thánh Đạo, Bồ Tát Đạo, phải thấy được tâm. Nếu tu mà không thấy được bản tâm là còn tu theo tà giáo. Nên tu cần soi rọi bản tâm thấy tâm bằng chánh kiến.
Cõi sắc giới là Thiên Thừa gọi là cõi Trời. Cõi này đã giảm dần tâm dục, thỉnh thoảng còn tham, sân, si nhưng ít hơn người tâm cõi dục giới.
Cõi sắc giới không còn tâm tham như cõi dục giới. Sắc giới không còn hành động mang dục vọng thấp hèn sanh khởi nhưng chưa toàn giác.
Ba cõi này còn nằm trong lục đạo luân hồi, vì chưa thoát hẳn được lòng dục. Có những tâm niệm này do sự biến hóa của dòng tâm thức, từ cõi vô hình, luôn nghĩ nhớ lo lắng, phục vụ cho hữu hình, muốn cho thân được đầy đủ, thỏa thích, sung sướng. Mọi sự khổ, đày đọa, làm khổ tâm, đều biến hóa từ cõi vô hình. Tu, mục đích là chuyển đổi tâm mê ra ngộ, sống bằng tuệ giác thông sáng. Phước báu người tu rất cần là giác ngộ sáng suốt, có trí tuệ mới phát huy đạo đức, xây dựng được tâm an lạc, hạnh phúc cho chính ta và đem an vui, hỷ lạc đến cho mọi người. Thấy tánh sẽ rõ được tâm, rõ được tâm niệm sanh khởi tại lòng mình, mới lìa được sanh tử luân hồi, lìa khổ được vui, còn niệm tham nhiều sẽ khổ nhiều. Cuộc sống nhẹ nhàng thoải mái là đã xả dần bớt tâm tham, tự biết đường nào là hầm hố, gai chông mà tránh là vượt qua hiểm nạn.
Đạo là gì ? Đạo là con đường, đạo là bổn phận, đạo là bản thể lý tánh tuyệt đối. Rất nhiều đường, rất nhiều đạo, như Nhân Đạo, Thiên Đạo, Thánh Đạo, Thần Đạo, Bồ Tát Đạo, A-Tu-La Đạo, Địa Ngục Đạo, Súc Sanh Đạo, Ngạ Quỷ Đạo. Muốn vào Phật Đạo phải chọn con đường Bát Chánh Đạo, là bước đầu tiên. Phật Đạo cũng là con đường có sẵn tại tâm mỗi người, quyết lòng tu phải tự chọn mà đi. Nếu thấy còn tâm niệm vào lục đạo luân hồi là chưa hoàn hảo, tâm niệm vẫn còn lăng xăng. Người tu là thường nghe lại tiếng lòng, nghe bằng trí giác chính mình, đừng phan duyên, mãi niệm theo vọng huyễn bên ngoài mà quên tánh giác, không nghiêng theo tập tục, phong cách, hình thức truyền miệng bên ngoài thế gian, làm tâm lăng xăng khó an định.
Đạo chơn là lý tánh tuyệt đối, là bản thể tuyệt ngữ ngôn, lìa mọi nói năng, không chấp văn tự hay hình thức. Có người hỏi Tổ, Đạo là gì? Tổ trả lời “Trước Phật Oai Âm Vương không có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là đạo”. Đạo chơn đồng nghĩa cùng bản thể bình đẳng chơn như, tuyệt ngôn ngữ, văn tự, vạn pháp duy tâm, nhất thiết do tâm tạo. Buồn do tâm niệm mà tạo, tham do tâm niệm mà tạo có tánh tham. An lạc tâm được bình yên cũng do tâm buông xả các niệm mê, nhờ biết gạn lọc tâm nên tâm tạo được Cực Lạc. Tạo Niết Bàn cũng chính tại tâm tạo tác. Tất cả tâm niệm do ý sanh khởi đều không thật. Khi bỏ xác thân là tứ đại tan ra là hết duyên, các pháp đều tan biến, nhưng nghiệp tham vọng là ác nghiệp còn mãi. Lúc lâm chung là cận tử nghiệp, thì nghiệp mê càng hiện rõ. Những hình ảnh thường giao tiếp hằng ngày như vợ chồng, con cái, của tiền, vật chất, tài sản, những kẻ ân oán, những người thương đều hiện rõ. Có hoàn cảnh này là do lúc sanh tiền, tâm đã từng huân tập, chất chứa. Nếu duyên nghiệp nào mạnh nhất sẽ cuốn hút dẫn ta theo, gọi là nghiệp dẫn chúng sanh luân hồi. Vì vậy, lúc sanh tiền còn khỏe mạnh, cần nỗ lực tu, cho các vọng nghiệp vắng lặng, tâm không còn chấp hình ảnh, văn tự, chữ nghĩa hoàn cảnh cho là thật, thì hiện tại tâm đã thanh tịnh, sáng suốt bỏ qua, xả bỏ mọi dục niệm, cho quen dần những pháp huyễn hoặc không thật, biết có vạn pháp biến hiện thay đổi là do tâm tạo, tự cương quyết lo tu sửa bản tâm là giữ tròn đạo chơn. Mọi người đều có sẵn lý tánh tuyệt đối, vì vô minh quên bỏ, mãi mê chạy theo vọng trần huyễn ảo, cõi vô hình thường luân hồi đày đọa làm thân bất an, đau khổ. Vô hình có hai loại, các niệm lăng xăng loạn động từ vô hình biến hiện, cũng có niệm thanh tịnh vắng lặng tuyệt đối cũng từ vô hình, nhưng rất khó giữ tâm an trở về các niệm thanh tịnh, chỉ có bậc đã thông suốt giáo lý, giác ngộ các pháp thế gian, mới thành tựu, thấy được chơn tâm.
Ta cần biết rõ, Phật là gì ? Phật là người có tâm giác, người sống bằng tâm mê gọi là chúng sanh. Phật là tánh giác ngộ sáng suốt hoàn toàn, còn cái bên ngoài biết cái này là xe, nhà, biết người, biết mọi vật… Cái nhận biết những gì có tướng trạng, đó chỉ là cái biết bằng vọng thức, biết bởi niệm phân biệt tốt xấu, thích yêu, nên hư, phải trái, đúng sai. Cái biết này sẽ làm tâm khổ sở vô cùng, vì biết bằng phân biệt, tính toán sẽ làm ra nhiều tội lỗi, nhiều tham vọng. Biết bằng các pháp sai lầm, biết bằng trí tuệ sáng suốt, giác ngộ được vạn pháp, trí giác hoàn toàn do nơi phước báu công phu tu hành mà thông suốt, mới là phước huệ song tu. Tiền của có nhiều cũng gọi là phước, nhưng chỉ là phước thế gian. Phước này không bền chắc, sẽ tiêu dần, vì phước thế gian có được chỉ tạo ra từ tham vọng, đấu tranh, giành giựt, tính toán, có bằng lòng ti tiện gom góp được các pháp của thế gian, nên phước đó không thật. Phước báu từ công năng tu hành mới siêu vượt ra khỏi thế gian là phước vô lậu tuyệt đối, phước từ tánh giác mới đầy đủ phước huệ. Tu là tự dùng trí tuệ làm sức mạnh chiến đấu với những thói quen, chiến đấu mọi tham vọng, thắng mọi tham muốn, thắng mọi hành động tạo ra nghiệp ác. Lời nói độc ác hay chơn chánh phát ra ngay đời sống là thể hiện tâm địa thấp hèn hay cao thượng, tại ý niệm người biết gìn giữ giới tâm hay còn buông lung, phóng túng. Người Phật tử khi quy y cần biết, Quy Y Phật là lưỡng túc tôn, nghĩa là hai bên phước và trí đầy đủ, phước trí nhị nghiêm. Quy Y Pháp là ly dục tôn, là dùng pháp tu để viễn ly, lìa bỏ lòng ham muốn, tham lam, sân hận. Chưa xả bỏ được những điều này là chưa quy y pháp. Pháp là mẹ sanh ra chư Phật. Phật cũng nhờ pháp mà thành tựu tánh giác, chưa xả bỏ lòng tham thì không thành Phật được. Quy y Tăng là chúng trung tôn, phải biết tôn trọng, thương kính Thầy Tổ, là người đi trước biết đường chỉ dẫn cho ta trở về Quy Y Phật, Quy Y Pháp, chỉ có Thầy mới là người đầy đủ đức trí, giới thiệu cho ta biết pháp, biết Phật. Ta biết bảo vệ, giữ gìn giới luật là giữ gìn bảo vệ Phật Pháp, là nghe lời Thầy dạy. Kính trọng Thầy cũng là kính trọng Tăng, là y giáo phụng hành, mới đúng là quy y Tăng. Có quy y ba ngôi Phật, Pháp, Tăng, sống bằng chánh kiến mới thật sự kính trọng Tam Bảo. Người phát tâm tu mà chưa làm được những điều này, thì chỉ quy y bằng hình thức bên ngoài. Vẫn dự lễ quy y mà thật ra lòng chưa chơn thật quy y, vì chưa thông hiểu ba ngôi Tam Bảo, chưa thọ Tam Quy, chưa đắc giới. Người đắc giới tự sử dụng trí tuệ, tự phát nguyện vì vô lượng kiếp đã gây tạo ra biết bao tội nghiệp, nay nhờ duyên lành được quy y Phật, Pháp, Tăng, được học Tam Quy Ngũ Giới, lòng tràn đầy hạnh phúc, đã sáng suốt thấy được tội lỗi, biết giữ ngũ giới để tu sửa bản tâm. Mượn pháp thiền định thực tu để tâm an định, không còn nhớ việc bên ngoài, tâm quen dần với sự vắng lặng thanh tịnh, thường sống với tánh giác, quên dần mọi việc ngoài thế gian, không còn quan trọng, không niệm nhớ hoàn cảnh, thường quán xét tâm, không để tâm lơi lỏng, không vướng mắc, niệm trụ vào khổ vui, thua được, thất bại hay thành công. Lòng không xao xuyến, bất an, là thường công phu giữ chánh niệm. Nếu có khởi niệm, tự tư duy, hoàn toàn là niệm chơn chánh sáng suốt, không còn lầm pháp, việc làm có hành động từ trí giác, không có niệm sợ sệt, bất an, không mong cầu vì biết có cũng chỉ là hoàn cảnh không thật. Có pháp đều tùy vào nhân duyên nên lòng không bận bịu, khi đi, đứng, nằm, ngồi trong tứ oai nghi, tâm chánh định, chánh niệm, chánh tư duy. Dù có ai nói oan ức, thêm bớt, sỉ mạ, lòng tự nhiên không buồn giận, tâm sáng suốt biết pháp đến đều có nguyên nhân. Duyên đến vẫn tự nhiên, tâm không vọng động, não loạn. Mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh đều tự giác, do thực hành công phu miên mật nên tâm không xao lãng, giữ tâm thuần tịnh là đắc thiền định trong giác ngộ.
Quả A- La- Hán là vô tham, vô sân, vô si đã dứt tuyệt, không còn niệm nghĩ nhớ trở lại pháp thế gian. Vô sanh là không sanh tâm niệm trong lục đạo. Vẫn hiện có sắc thân mà tâm luôn trong sạch, không còn uế nhiễm, gọi là chứng quả vô sanh, là bậc Thánh Nhân vô ngại tự tại, ngã pháp đều không. Vô ngã là không tham, không si, không ngã mạn, không tự cao… Pháp là những gì có tướng và mọi trạng thái thay đổi qua cảm thọ cũng là pháp nhưng không tướng. Quả Thanh Văn, Phật cũng gọi là Tiểu thừa, cỗ xe nhỏ, chỉ chở được riêng mình, không chở được chúng sanh, là pháp tự độ, chưa độ tha, chưa độ được chúng sanh. Tham ái có rất nhiều pháp, như ái sân, ái yêu, ái si. Ái là các sự ưa thích, nguồn gốc ái sanh khởi vì tâm tham, thích người, thích vật. Nếu vừa lòng thì quyết giữ cho là của tôi, cho là tốt, nếu giữ không được thì ái si sẽ sanh khởi, nên Phật dạy người tu cần xa khỏi chữ ái là cắt ái, kinh dạy :
Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba,
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di Đà.
Nếu người ra dẫn độ chúng sanh mà cõi lòng còn ái sân, ái si là tâm còn sa đọa, rớt vào sông ái, bị sóng dập gió vùi. Vì biển trần đầy ái nhiễm, phải xét coi phận mình đã độ xong chưa, mà toan vào thế rước đưa bộ hiền. Nghe qua âm thanh, sắc tướng ở cuộc đời có rất nhiều tâm ý của người dẫn giải, khai thị, nhưng người qua khỏi biển ái rất hiếm, nên Cổ Đức dạy :
“Bổn đạo đông mà chở xuồng dong không đầy”. Nếu người dẫn chúng sanh tâm còn ở sông ái, mà ra dẫn người mê thì tất cả đều đi vào sông sầu biển ái, không vượt qua được để lên bờ giải thoát. Phải gấp rút niệm nhớ lại tự tánh Di Đà sáng suốt trí tuệ, mới thoát được luân hồi khổ. Cần nhìn vào thế giới vô hình tại cõi lòng mà tìm thấy tự tánh thanh tịnh, để sống được với tánh chơn chánh, tìm cách ra khỏi trần lao khổ ải, ra khỏi biển nghiệp tham sân si, tự giải thoát cho mình, mới đầy đủ kinh nghiệm đem ra cứu người khác thoát khổ.
Bậc A-La-Hán sau khi tự cứu mình thoát khổ, nhìn lại thấy chúng sanh còn lặn hụp nơi sông sầu, biển ái, nên các Ngài khởi từ tâm muốn ra cứu độ dẫn dắt chúng sanh, khởi lòng thương yêu hành Bồ Tát đạo là tự nâng trình độ lên quả giác Đại thừa, là giác tha, thì giác hạnh mới viên mãn.
Giác hạnh viên mãn là đầy đủ sáng suốt, chánh hạnh tại lòng mình, đem kinh nghiệm giác ngộ nơi tâm mình để hướng dẫn cho người. Mười đẳng cấp Bồ Tát, từ sơ địa cho đến cửu địa chưa viên mãn, đến khi tròn đủ là quả Bồ Tát Thập Địa mới đủ khả năng ra độ chúng sanh, đã đoạn sạch vi tế phiền não. Vi tế phiền não là thỉnh thoảng còn tác ý sanh khởi, nghĩ nhớ, lòng còn chợt buồn, chợt khổ khi có người làm phiền lòng. Bồ Tát Thập Địa giác hạnh tròn đủ mới ra độ chúng sanh. Bậc Bồ Tát không còn tâm tham, sân, si. Nếu tâm còn những hành động này mà ra độ chúng sanh là lường gạt chúng sanh. Vì hiện tiền tâm còn đầy uế nhiễm, vẫn còn tâm ý lợi dụng, dù có nói pháp Phật, kinh Phật, nói thật nhiều cũng không đúng chánh pháp. Những người còn tâm niệm này, Tổ nói, hạng người đó chỉ là Ma nói pháp Phật. Chỉ có Phật mới giác hạnh viên mãn. Phật là người đã giác, sáng suốt, trí tuệ hiểu biết tột cùng. Hạnh là giữ đời sống phạm hạnh thanh cao, trong sạch, cần thấy được hạnh ta và tâm người, mới cùng nhau dìu dắt cho cõi lòng được tự tại giải thoát, không còn tâm niệm mê đắm, sân si mới là tâm bình đẳng. Phật là danh từ chung để gọi bậc tự giác, giác tha, giác hạnh đã viên mãn. Danh từ Phật không dành riêng để gọi cho một cá nhân riêng biệt, mà danh từ chung để chỉ cho bất cứ người nào khi giác hạnh viên mãn. Cũng giống như danh từ Bác sĩ, Kỷ sư, Thầy giáo, Ngệ sĩ, Tu sĩ đều là danh từ chung để chỉ vào trình độ, đạo đức, kinh nghiệm tài năng của con người, đủ khả năng giải quyết được, làm được các pháp thế gian, đem lợi ích cho mọi người. Phật là danh từ chỉ vào con người đã dẹp sạch mọi nhơ uế trong lòng, đã giác ngộ được các pháp. Tu theo đạo Phật là theo con đường chơn chánh, hoàn toàn sáng suốt, biết rõ bản thể vạn vật. Con đường vào đạo ngay đời sống, dò xét từng hành động ứng xử, đối đãi có theo chánh kiến hay không? Tâm có lìa được tham, sân, si không? Có tham đắm mê tài vật không? Thường xét kỹ hiện tiền tâm vì các pháp thường ẩn hiện biến hóa tại tâm, chỉ nhờ duyên xuất hiện. Nếu không giác giữ tâm an định, mãi duyên theo pháp trần, vướng mắc, sẽ làm tâm vẫn đục. Bản giác là bản thể sẵn có mỗi chúng sanh, nên có chúng sanh là có bản giác, có từ vô thủy là Nhiên Đăng Cổ Phật. Bản giác tự nhiên không đầu, không đuôi, không giới hạn bởi thời gian hay không gian, rất trong sáng nhưng khi đến thế gian, do vật chất tạp nhiễm càng nhiều, càng lu mờ bản giác, có chúng sanh là có bản giác. Đạo Phật có từ nguyên thủy. Nếu căn cứ theo sự thị hiện của Đức Thích Ca thì đạo Phật xuất hiện hơn 2550 năm, có hiệu là Thích Ca Mâu Ni nghĩa là Năng Nhân Tịch Mặc. Mâu Ni là căn bổn vắng lặng, đã tắt lịm lòng tham dục, không còn sân si, không còn mê loạn, giác ngộ các pháp ngay đời sống, luôn giữ gìn cho bản tâm an ổn, trong sạch, dù trước mặt hoàn cảnh là ồn ào hay bị người xúc phạm, tâm vẫn tịch mặc là không buồn, không giận, không thù ghét, không vướng bận điều gì vào tâm, phiền não không quấy rối, đó là tâm đã hết mê, hoàn toàn vắng lặng, khổ vui không còn bận bịu tâm, cõi tâm đã giải thoát xa lìa các pháp. Khi ngồi dưới cây Tất Bát La, Ngài đã thệ nguyện rằng “Dù thịt nát xương tan, nếu không thành đạo, ta quyết không đứng dậy”. Đó là đại nguyện của Thế Tôn. Giáo lý nhà Phật gồm ba tạng kinh điển là Kinh, Luật, Luận.
Kinh là lời Đức Phật Thích Ca đã nói, rút ra từ kinh nghiệm tu hành lúc còn tại thế, kinh nghiệm của Ngài để lại, dạy cho chúng sanh biết phương pháp dứt trừ phiền não, giúp tâm chứng ngộ nhập quả Niết Bàn. Tụng kinh phải thâm nhập ý kinh, ứng dụng kinh vào đời sống hằng ngày, dùng lý kinh chiêm nghiệm vào tâm, coi hiện tiền tâm có đúng theo chơn lý không? Còn si mê tham ái không? Có đoạn trừ được phiền não chưa? Phải biết dùng chơn lý từ lời Phật dạy trong kinh, ứng dụng vào tâm mà tu hành, không lợi dụng hình tướng nhà Phật làm chúng sanh bất bình, bất mãn. Niết Bàn cũng chỉ vào bổn tánh Năng Nhơn Tịch Mặc - Người mà cõi lòng là từ bi bình thản, nhẹ nhàng, hỷ xả, vị tha, không còn chất chứa thù oán, ích kỷ, hẹp hòi, độc ác, phiền não, lăng xăng.
Luật là giới luật Phật đã chế ra để răn ngừa, ngăn chặn các điều dữ, tu tập điều lành trang nghiêm cho thân tâm thanh tịnh. Điều dữ là không sát sanh, không trộm cắp, không gian dối, không tà dâm, không uống rượu, không cờ bạc. Nếu không giữ được năm điều này, sẽ làm cho ta và mọi người đau khổ. Khi đã quy y thọ giới mà giữ được năm điều này là đắc giới, thường có hào quang chiếu sáng, mọi người đều cung kính, thường có 25 vị thần theo ủng hộ, bảo vệ sự sáng suốt trí tuệ. Khi giữ tròn giới hạnh là đã tu tập, sống được với điều lành, thân tâm đều thanh tịnh.
Luận là những điều được các đệ tử Phật vạch ra, thế nào là Tà đạo hay Chánh đạo, cho chúng sanh không lầm lẫn hai nẻo chánh tà. Luận là giải thích ra những điều bí yếu sâu kín trong kinh Phật đã dạy, giúp mọi người dễ hiểu tu tập, mở mang trí tuệ.
Tam Tạng Kinh có Tiểu thừa và Đại thừa.
Tiểu thừa dạy cho các vị La Hán dứt hết tham, sân, si, khi tâm đã giác ngộ, xả bỏ hết vọng niệm lòng trong sạch, vắng lặng. Người có bản tâm này gọi bằng danh từ là bậc A-La-Hán. Hàng Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ, chỉ tự độ cho cá nhân mình. Đại thừa là người đã tu chứng từ quả A-La-Hán trở lên, là Chư Tổ, Chư Bồ Tát, đã trừ sạch mọi tham ái, lòng từ bi đưa chúng sanh từ cõi tham lam, mê đắm, từ biển khổ sông mê qua bờ giác ngộ an vui, hạnh phúc.
Cõi giới chúng sanh đầu tiên là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tâm còn tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, tà kiến. . . là các cõi của ác đạo. Bậc Đại thừa dẫn dắt họ lần lần từ cõi Nhân Thừa tâm biết giữ Tam Quy, Ngũ Giới, là nền mống xây dựng công đức từ những hạnh đức đã được tích lũy, là càng nâng cao trình độ cho quả giác, tiến lần lên Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa là tiến hóa lần lên Đại thừa. Vì căn cơ và tâm lượng của chúng sanh không đồng nhau, nên Phật nói ra nhiều Thừa. Tùy vào khả năng, sức lực, nguyện vọng chuyên chở pháp mà có danh từ các Thừa. Dùng diễn nói sự tu tập qua từng quả giác của sự giác ngộ.
Danh từ nhập diệt là chỉ vào bậc sống bằng trí huệ, đã giác ngộ lòng minh mẫn, sau khi bỏ xác thân, nhập vào thế giới thanh tịnh gọi là Niết Bàn. Tâm đã vắng lặng các pháp gọi là an nhiên thị tịch, đã vào thế giới an lành tự tại, những tâm niệm còn quẩn quanh lục đạo không gọi là nhập Niết Bàn được. Thời Đức Phật, có ngài Ca Diếp trí tuệ vô song, đã tu chứng đắc đạo quả, ngài A-Nan là biện tài đa văn đệ nhất thường gần bên Phật. Những gì Phật nói ra, ngài A-Nan đều thu thập, nhưng chưa chứng đắc đạo quả. Hằng ngày thường va chạm hoàn cảnh, tâm ý còn quan trọng sự được thua, còn mất quyền lợi vì mê tài sản vật chất chỉ muốn lợi cho ta... Khi xúc chạm thấy người đẹp, người xấu, người ác, người lành, lúc này phải tự quán xét tâm, mới thấy được tâm niệm sanh khởi, biết lòng còn vướng bận hay đã an định, tự sử dụng bằng trí giác hay vẫn còn niệm vào trần lao, chịu mọi sai sử của ác niệm đang trói chặt, là nghiệp đang dẫn tâm vào ác đạo, chỉ có bậc trí tuệ vô song mới chứng được đạo quả này. Đây là pháp tu thực dụng xả bỏ ngay đời sống, xả mọi phiền muộn, tham, sân, si.
Khi xúc chạm, cảm thọ với pháp, là người tu cần nhanh chóng coi lại hiện tiền tâm đang là tâm gì? Niệm gì? Đang muốn điều gì ? Đòi hỏi được gì? Có rất nhiều tâm đang chực chờ, khi lục căn tiếp xúc, chạm duyên, rất nhạy bén tiếp nhận tâm tham, tâm si, tâm sân, tâm não loạn, tâm ghen ghét, tâm nhỏ mọn, tâm ích kỷ, tâm độc ác... Những tâm niệm này thường biến hiện trong tư tưởng, là nghiệp thức tại lòng ta, mà kinh gọi là vô biên chúng sanh. Người tu sống bằng tánh giác, phải dùng sự sáng suốt, tiếp cận với vô biên chúng sanh tại lòng mà thệ nguyện độ, phiền não đầy ấp trong tâm, nhiều vô tận thệ nguyện đoạn, điều này trong kinh Phật nguyện độ tất cả chúng sanh mà không thấy chúng sanh nào được độ cả. Thiền là thường dò xét cõi lòng, mỗi niệm, mỗi niệm khởi đều là niệm chơn chánh, không nhận nghiệp, là không để tạp niệm chen vào, làm hiện tiền tâm bị khuấy động, mất thanh tịnh, mất trang nghiêm, phải nhờ trí tuệ soi sáng là những quang minh vân đài chiếu khắp pháp giới, rọi soi vào khắp cõi tâm, mới nhìn thấy được các loạn niệm thường luân chuyển. Ta sáng suốt, không duyên theo, sẽ bị lầm lạc, biết rõ pháp chánh hay tà, tự chuyển đổi cõi tâm cho tốt đẹp. Ngài Đại Ca Diếp chứng đạo nhờ biết tự kiểm soát hiện tiền tâm, giờ giờ, phút phút không lơi lỏng. Ngài thường biết rõ những trạng thái biến đổi của tâm rất nhanh lẹ, thay đổi từng sát-na. Kinh nói, tâm biến đổi nhanh như điện chớp, như nháy mắt, gọi là tâm viên ý mã, nhảy nhót lung tung. Nên người nào đến phút lâm chung mà quyết giữ tâm an ổn, không còn điên đảo bởi trần cảnh, không nhớ chư duyên là lòng không tríu mến chuyện tình thế gian, nếu không rước ở nước Ta, thệ không thành Phật, chắc là không sai. Chính thật sự ngay lúc tắt hơi, nếu hiện tiền tâm an ổn, thanh tịnh là nhất tâm, thì tâm hiện tiền đó sẽ đưa ta về Thế Giới Cực Lạc, là cõi Phật từng xây dựng nhiều công đức tại tâm, chắc chắn nhập vào cõi thanh tịnh, nhàn vui.
Bậc giác ngộ hoằng truyền giáo pháp, khi thuyết giảng, dạy tụng kinh, niệm Phật, tu thiền hay tu bất cứ pháp môn nào, cần phát tâm từ bi hướng dẫn, đưa người tu tập thẳng vào đường giác ngộ, giải thoát ra khỏi lục đạo, lìa sanh tử luân hồi, giúp người dứt lìa sanh tử mới là truyền thừa Phật pháp, theo đúng đường của Chư Phật, Chư Tổ dạy. Người chịu cực nhọc, quyết vượt qua mọi thử thách của cuộc đời, thì chính người đó là sứ giả của Như Lai, phụng sự chư Phật. Ngài Ca Diếp và ngài A-Nan thay thế Phật hoằng truyền giáo pháp vào thời kỳ thứ nhứt, sau khi Đức Phật tịch diệt, đó là pháp truyền thừa, trí tuệ Phật là vô thượng, không còn sáng suốt nào hơn nữa. Sự truyền bá sau thời Đức Phật có hai hướng, một hướng về Phương Bắc, một hướng về Phương Nam. Phương Bắc là Bắc Phương hay là Bắc Tôn. Đạo được truyền thừa từ Ấn Độ đến Tây Tạng qua Trung Quốc, có danh gọi là Đại Thừa Phật Giáo. Phía Nam gọi là Nam Phương Phật Giáo là Tiểu Thừa Phật Giáo hay Nguyên Thủy Phật Giáo gồm Tích Lan, Miến Điện, Ai Lao, Nam Dương. Đại Thừa thì lấy Phật tánh làm Tông. Mục đích là triển khai Phật tánh đó là lý, về sự bậc giác ngộ thấy sâu các phiền não, tham, sân, si, thấy bằng trí tuệ, thấy tâm thanh tịnh, dù chưa hoàn toàn đoạn dứt, vẫn còn niệm trần vi tuế, nhưng quyết sửa tâm lần lần cho tâm hoàn hảo trong sạch, mới phát lòng đại bi vì thương xót chúng sanh, biết họ chưa đủ nhân duyên giác ngộ vì xa Phật quá lâu. Nếu họ được gặp Thiện Tri Thức, trí tuệ chơn chánh, khai thị, chỉ tánh giác, họ sẽ giác ngộ thấy được bản tâm. Trách nhiệm khai sáng tâm chúng sanh mê muội rất cực nhọc, vì sao? Trong kinh Phật dạy rằng “Dời non, dời biển dễ dời, nhưng dời đổi tâm mê của chúng sanh rất khó, giang sơn dễ đổi mà bản tánh khó dời”. Nếu tu theo pháp thế gian là tụng kinh, gõ mõ, cúng kiến, từ thiện, bố thí là thế pháp thì dễ, mà tu thấy tâm tánh để sửa sang, tu tâm dưỡng tánh khó vô cùng vì đạo không khổ không thành. Phải chứng ngộ được các sự khổ, vượt qua mọi sự khổ bằng tự lực, thông suốt được các pháp, không nương vào pháp cầu cạnh, mong muốn, mà phải tự chấp nhận, tự đứng lên bằng tâm định tỉnh. Phật nói, đó là sức mạnh của trí tuệ Ngư Long Tượng, không khiếp sợ chúng ma, tâm là Bồ Đề Đại Thọ, nơi tất cả chúng sanh nương tựa để giác ngộ, lòng an nhiên tự tại đó mới là chơn lý, là bậc đại hùng gánh vác sự nghiệp Như Lai, biết phụng sự Chư Phật, là hạt nhân chư Tổ. Nếu nhận biết được điều này, giữ gìn hiện tiền tâm ngay cuộc đời, thực hành trong quá trình tu tập, hạnh và lý phải tương ưng, học giáo lý phải áp dụng cho được sự học vào tâm mới là tâm Đại thừa, phục vụ chúng sanh tức cúng dường Chư Phật. Phục vụ bằng tâm hiện tiền, bằng lòng hoan hỷ, tích cực, vì thương mến mọi người mà đem sáng suốt, hạnh phúc đến cho họ, không vì tư lợi cá nhân, đây là pháp chơn truyền của chư Tổ.
Tông Tiểu thừa cũng tu mà sống ngay hiện tiền tâm là xả bỏ tham, sân, si, phiền não... dẹp Thập Kiết Sử, cõi tâm thường vắng lặng, thanh tịnh, nhưng không chấp nhận được sự khổ, khác với người tu Đại thừa bằng lòng chịu đựng mọi khó khăn, khi các duyên đến, bằng lòng trong sạch, sáng suốt chấp nhận vượt qua mọi hoàn cảnh gọi là thế gian giải. Tu Phật không cần nói nhiều, nói suông mà cần xét kỹ hiện tiền tâm, sử dụng tâm biểu hiện qua hành động như thế nào, hiện tại cõi tâm là chánh niệm, chánh tư duy, chánh định, chánh huệ không? Chính là bất lập văn tự tuyệt ngữ ngôn. Thuyết pháp là mượn danh từ, đúng chơn lý để chỉ đường cho người chưa biết chưa thấy tâm tánh để tu sửa, nên Tổ dạy: “kiến tánh khởi tu”. Tuy hai Tông Phái có hai danh từ, nhưng bậc giác ngộ không có tâm chỉ trích, chê bai, khích bán bộ phái Tông Môn hay đả kích lẫn nhau, cần hòa hợp, cảm thông. Căn cơ chúng sanh vốn không đồng, tùy nghiệp dẫn nên có từ thấp đến cao, sự hiểu biết sâu cạn khác nhau không tương đồng, kẻ ngu, người trí, tất cả đều có quyền tắm mình trong Pháp Phật. Mục đích của đạo Phật là đem kết quả lợi ích đẹp đẽ hiện tại và sau này cho chúng sanh. Tam cõi như hỏa trạch, đều uế nhiễm, không tốt đẹp, chỉ sau khi tu tập giác ngộ, thông suốt giáo lý, tự chuyển đổi tâm tánh, mới đem sự tốt đẹp mà trang nghiêm thế giới tại tâm được, mới xây dựng được Niết Bàn Diệu Tâm Vi diệu. Tâm chúng sanh còn điên đảo, bồng bềnh, khổ đau vì trôi nổi trên biển nghiệp thức nên không vi diệu. Khi nghe khai thị, tỏ ngộ được tự tánh, thấy tánh còn phiền não, tánh còn si mê, tánh còn gian tham, tranh đấu, thì biết tánh còn đầy uế nhiễm, liền thí xả buông bỏ, lập tức chứng ngộ Thánh quả, tâm đó là hạt giống Bồ Đề đang được chăm sóc, nuôi dưỡng hiện huân tu. Khi gặp Thầy Tổ khai thị là đủ nhân duyên, là gặp đúng thời tiết giác ngộ, liền tỏ ngộ thấy rõ chơn tâm, biết trạng thái an lạc thanh tịnh của tâm thì quốc độ tại lòng là Cực Lạc, hạnh phúc bình an tuyệt diệu.
Chơn thường là gì ? Là sự chơn thật, thường là thường còn, không bị thay đổi mất mác, giống như vàng y là nguyên chất, dù biến đổi quá nhiều tướng trạng của nữ trang, nhưng chất lượng vàng vẫn y nguyên là vàng không thay đổi, đó gọi là thường còn. Chơn tâm cũng vậy, dù có sự biến đổi nơi bản tâm, nhưng chơn tâm vẫn thường y như vậy, bất tăng, bất giảm. Tướng chúng sanh trôi lăn, tâm biến đổi vì bởi vô thường, khi trẻ, khi già, khi đau, khi ốm, khi mạnh khỏe, sống, chết, không nhất định ở yên một trạng thái nào, mãi mãi biến hóa theo nhân duyên, gọi là vô thường, cần phát huy trí tuệ vô biên mới thấy rõ được điều này. Những gì có sắc tướng sanh ra hoàn toàn sẽ hư hoại, hoàn cảnh cũng thay đổi. Nên Phật dạy “Phàm chư hữu tướng, sanh diệt vô trụ, như điện chớp, như bào ảnh, như mù sương đều không bền chắc, lìa tất cả chư tướng mới là chơn thật tướng”. Nếu chấp vào tướng thấy, có nhà cửa, của cải, có tài sản, thấy có nam nữ nhưng với trí Bát Nhã Chơn Không thì thấy tất cả đều là hư không, nhà cửa, của cải, tài sản, nam nữ đều không có trạng thái cố định, rồi sẽ hoại diệt, nên lòng không khổ. Nếu nhìn bằng mắt thấy của phàm phu, chấp thật pháp, khi các pháp hết duyên tan rã vì sự vô thường, sẽ vướng bận làm tâm đau khổ. Buồn vì mất mác, khi mất xác thân là sự mất mác lớn lao nên càng đau khổ nhiều hơn. Nếu đời đời kiếp kiếp mãi niệm vào lục đạo, là chịu luân hồi đau khổ mãi, đau khổ vì không ra khỏi Tam Ác Đạo. Biết sống bằng trí giác, biết tâm niệm từ hư không luôn sanh diệt, biến hiện đến bằng vô thường, không có thật, chỉ do thức biến chuyển sanh diệt bởi dòng tâm thức qua tư tưởng biến hóa thì lòng định lặng, tỉnh thức, bình an. Cũng như biển là chỗ trũng lớn, bởi nước mưa từ trên cao rơi xuống, cùng chứa nước của sông, suối, ao, hồ, kênh, rạch chảy về tích chứa thành biển. Từ biển tiếp xúc nhận sức nóng của mặt trời nung lên thành hơi, gặp đủ duyên tiếp tục có mưa, rơi xuống khắp sông, suối, kênh, rạch, ao, hồ, chảy thành nguồn cũng tuôn về biển. Như kim đồng hồ, cứ xoay vòng mãi, rồi cũng xoay vòng về vị trí cũ. Các pháp cũng thuận theo luật tuần hườn. Con người vì bị sở chấp đè nặng, chấp hoàn cảnh là của tôi, nên có thất vọng đau khổ. Loài cây cỏ từ nhân là hạt, nhận các duyên là sự ẩm ướt của đất, nước, gió, lửa, có các duyên đầy đủ hạt giống mới trổ mầm, vươn lên có thân cây, trổ lá, đơm hoa, kết trái, đầu tiên là lá non xanh, vàng đến úa, tàn rồi rơi rụng, cây khô, chết. Quả có hạt là còn nhân còn giống tiếp tục ra mầm, mãi mãi có nhân tiếp nối không ngừng, đó là luật tự nhiên tuần hườn diệt sanh bình thường của vạn pháp. Nếu nhân là con người, Thiên, Bồ Tát, Phật, A-Tu-La, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục không đổi giống, thì sự vận hành biến chuyển nơi đất tâm còn nhân nào thì quả y như vậy. Giác ngộ biết gìn giữ bản tâm an định, thanh thịnh là nhân mãi nơi bản giác chơn thường, vì mê chạy theo vọng huyễn mà bỏ bản giác chơn thường bất sanh, bất diệt. Phật dùng pháp vô thường để giáo hóa chúng sanh dẫn lần về bản giác. Nhìn bằng mắt thế gian thấy có sanh, già, bệnh, chết, có khổ, nhưng bằng mắt trí tuệ biết các pháp là vô thường, thì chấp nhận có thân do duyên hợp, hết duyên sẽ tan hoại, an ổn với sanh già bệnh chết, coi đó là luật bình thường, không khổ bệnh, không còn cố chấp tham đắm. Sống bằng trí tuệ không đắm lụy thì muôn vạn sự đều không, tâm rất bình thường. Nước cũng có khi lớn khi ròng ; trời có nắng có mưa ; người, vật có sanh, già, bệnh, chết ; muôn vật, muôn loài có sanh phải có diệt, có tướng mà không vô thường thì rất khổ. Trẻ sơ sinh sanh ra mà không thay đổi bởi vô thường, thì vẫn cứ y như vậy, không lớn, không biết nói, biết ăn, cuộc đời sẽ mất thú vị, bệnh đau đớn, chịu dằn vặt xác thân không chết, thì đau khổ nào bằng. Nhờ luật tuần hườn diệt sanh, thay đổi tự nhiên của vạn vật, vũ trụ tự đến tự đi, bằng lòng mà sáng suốt tự chấp nhận, thường biết để sống với bản tánh chơn thường, chính là bản giác tịnh minh của tự tánh Phật. Khi Phật tịch diệt, các Bồ Tát đủ trí tuệ nên tâm là bản giác tự nhiên, không chao động vì đau khổ, biết định luật có sanh có diệt là lẽ bình thường y như vậy. Có duyên từ chơn không đến, khi duyên tan, tàn hoại cũng trở về với chơn không, lòng không vọng động trước hoàn cảnh đổi thay. Hàng Thanh Văn vì trí tuệ còn non nớt, tưởng chết là mất hết nên đau khổ vật vã khóc than. Sự thật chết không đi đâu cả. Đức Phật từ vô thỉ vẫn chơn thường bất biến, có biến hiện vì lòng từ bi tùy duyên đến để hóa độ chúng sanh. Như Lai là bản giác trí tuệ, bất khứ, bất lai, bất sanh, bất diệt, chẳng đi hay đến đâu cả. Vì mắt phàm phu mà không nhận biết được, các pháp vẫn y như vậy, theo luật tuần hườn mà thay đổi tướng trạng. Bậc giác ngộ, mọi sinh hoạt của đời sống vẫn bình thường, nhưng thế giới cõi tâm là từ, bi, hỷ, xả, an lạc, yên vui, nhẹ nhàng, vô úy, vô sở sợ, là kim cang tâm, bản thể chơn thường. Tu theo đạo Phật là hằng sống với tâm chơn thường, kiên định, không bị luật vô thường chi phối bởi duyên theo các niệm điên đảo, lăng xăng, tham đắm mà sanh có khổ vui. Nếu sống bằng các tâm vô thường sẽ bị luật tuần hườn tan rã. Tu là tự rèn luyện tâm thật định tỉnh mới là bậc trí tuệ.
Chơn lạc là sự hạnh phúc, an vui bất tận sau khi dùng năng lực chịu đựng, tự rèn luyện tâm khi đối diện tất cả mọi khổ khó của cuộc đời mà trí vẫn tỉnh giác, sống bình yên. Nên Tổ dạy : “Tâm bình thường thị đạo”
Mất bình thường là tâm đã trụ vào tham, sân, si, nóng giận, bất mãn, bất bình, bất an, lòng hiện ở trong ngục tù oán hận, đã mất chơn lạc.
Chơn ngã khi khởi niệm mà có tâm tham lam đạt được những điều đòi hỏi thì gọi là ngã tham. Có pháp nghịch, cản trở không vừa ý, vừa lòng, liền nổi lên ngã sân. Còn nuôi dưỡng tâm tham, niệm vào thích muốn, mê đắm, không bỏ được, là ngã si. Tất cả là ngã của phàm phu, không chơn thật. Chấp thật thân là chấp ngã, chấp lục căn, lục trần, lục thức cho là thật, là sống bằng phàm ngã. Giác ngộ, làm chủ được các pháp là sống với chơn ngã.
Chơn tịnh là đã gạn xả các pháp, các hoàn cảnh ô trọc ra khỏi tâm, cho cõi lòng tinh khiết, không còn bợn nhơ trần tục. Tâm không tịnh là cõi trược uế. Vì không tham nhẫn, không chịu nỗi sự thiếu thốn, tâm niệm luôn đòi hỏi, lúc nào cũng tìm những nhu cầu phục vụ cho tự ngã, tìm cách làm ra cho đủ vật chất, bằng cách lừa đảo, trộm cắp, gian dối, xảo quyệt, giựt dọc gọi là uế trược, tham ô. Muốn thân sung sướng, nuôi dưỡng thân bằng hành động sát sanh hại mạng. Vì sợ thân thiếu thốn, bệnh hoạn, mà không chừa tội lỗi uế trược, có hành động mê lầm làm tâm vẫn đục, đã tham cho mình còn tham cho người mình thương, nên mãi trầm luân lặn hụp trong bể ái hà. Cõi lòng thanh tịnh hay uế trược, chỉ chủ đích vào tâm hiện tiền sanh khởi, không đổ thừa cho ai hay tại ai mà có tâm tham cả. Khi thân đau bệnh đừng khởi niệm vào phiền não. Nếu kinh hoàng, lo sợ cho thân thì tâm đau. Nếu chấp vào hành động thân ngồi yên, chết lịm trong tăm tối, đó không phải là chơn tịnh, mà tịnh là không khởi niệm duyên theo hoàn cảnh hay theo vật hoặc theo âm thanh, sắc tướng, mọi ái niệm đều vắng lặng mới là chơn tịnh. Sáu căn tịch tịnh là viễn ly, xa lìa được tham, sân, si, phiền não, gạn lọc mọi ô trọc cõi đời mới là tâm thiền định. Tâm định tĩnh thì mới phát sanh trí huệ, là thường sống với chánh niệm. Muốn sống với tự tánh là chơn giác, phải tích lũy vô lượng công đức mới thành tựu pháp tu. Tu là giác, sáng ngay đời sống, thấy kỹ hiện tiền tâm đang là niệm gì? Có chánh báo mới có y báo. Y báo là lòng từ, bi, hỷ, xả thật rõ ràng, an lạc, giải thoát. Tự tại ngay đời sống, ngay hành động, ngay niệm hiện tiền, không đợi đến chết hay hy vọng vào đời sau nào cả. Đạo Phật rất thực tế, không mơ hồ, tư tưởng trừu tượng, mọi biến chuyển của nghiệp thức đi về đâu, trụ nơi đâu đều từ thân là hành động mà trổ quả. Phải do công hạnh con người, giác ngộ sáng suốt hiểu biết như thế nào hay tâm u mê là còn lọt vào tà kiến, còn tham đắm bỏn xẻn, tâm địa nhỏ hẹp ra sao thì vị lai y như vậy.
Phật là vị Đạo Sư dẫn đường cho ta ra khỏi sông sầu biển ái. Lòng từ bi thương muôn loài vô lượng, nên chư đệ tử muốn bày tỏ lòng tôn kính, biểu hiện hành động bằng cách lễ lạy Phật sát chân mà kính bái, tôn thờ đức độ siêu phàm của Ngài. Không ai có thể cho ta trí tuệ hay sự an lạc cả, chỉ thật tu mới chứng ngộ được bản tâm. Sự lợi ích là hiện tại sáng suốt, làm chủ được các pháp thì trí tuệ mới viên mãn. Phật là tánh giác không bị tiền tài vật chất làm khổ loạn, không bận bịu dính mắc. Dù hoàn cảnh nào đến vẫn an ổn tự tại, giải thoát. Người sử dụng lòng từ bi là đứng ra gánh vác sự khó khăn, hoạn nạn cho mọi người, biết giúp đỡ, thương yêu, nhường nhịn, đem niềm yên vui cho người khác. Gặp người nghèo khó đem tiền của ra giúp đỡ, dùng trí tuệ thông suốt đem ra giảng nói giúp người mê thức tỉnh, bớt si mê lầm lạc khổ đau. Đạo Phật rất bình đẳng, nghĩa là nữ làm tròn bổn phận của người nữ, nam làm tròn bổn phận của người nam, bình đẳng giữa thầy trò, làm hết bổn phận của trò, Thầy làm đủ bổn phận người Thầy, vợ chồng con cái đều y theo bổn phận, đúng vị trí của mình mà làm tròn đạo nghĩa, đó chính là tâm bình đẳng. Chúng sanh căn tánh không đồng vì vô minh nghiệp thức khác nhau nhưng đều sẵn có Phật tánh, trí tuệ như nhau, đó là bình đẳng trong pháp giới. Chúng sanh vì chưa đủ nhân duyên nên còn tăm tối. Loài vật vẫn có Phật tánh, có trí tuệ nhưng do kém phước báu nên chịu thọ nhận mang hình tướng thú cầm tùy theo nghiệp. Cây cỏ cũng bình đẳng, có sự sống giống như con người, cũng có cảm giác, có sự sống chết. Bậc giác ngộ đều tôn trọng cảm thông muôn loài, tuyệt đối không phân biệt. Chúng sanh căn tánh không đồng, còn chấp ngã làm điều tội lỗi, nên mang nghiệp có sai khác. Vì vậy nên Phật diệu dụng vô lượng pháp để dạy chúng sanh đối trị mà giữ gìn tâm, xa lìa vô lượng phiền não.
Học Phật cần thông hiểu, thực hành tường tận từng khúc chiết khi đối nhơn tiếp vật. Gặp người đối với ta bằng sân nộ, buồn phiền hay cảm mến, họ đến bằng dục vọng và lòng tham muốn, phải nhờ những bài đã học, áp dụng tu sửa, làm cho tâm sáng tỏ, không rơi vào mê lầm, đọa lạc vào điều tội lỗi. Tiếp vật là khi đến với tiền của tài sản, vật chất v.v... Dùng bản giác sẵn có chiếu soi, không bị vật mê hoặc, dẫn tâm ý ta vào việc làm sai quấy, độc ác. Bản đồ học Phật là cẩm nang, là đèn chiếu sáng, trí tuệ, giúp ta tăng phước báu, thực hành đúng chánh pháp, tu không ỷ vào sự học hay ở chùa lâu mà cho là đủ. Phật là thầy của Trời, Người và Thầy của khắp muôn loài, cùng tất cả chúng sanh, vậy mà Ngài vẫn tu học suốt ngày đêm, học kinh Vệ Đà của ngoại đạo, để nghiên cứu các pháp thế gian, hiểu biết thật rõ về cuộc đời, vì thế gian nhiều khổ, ít vui. Khổ vì chấp lầm các thú vui giả tạm. Thật ra, đời không có khổ vui, chỉ vì niệm vô minh mà sanh có tâm khổ, tâm vui, lợi hại, khen chê, tốt xấu, gọi là gió bát phong. Vì mê, nghiệp dẫn tâm vào đường tăm tối nên đọa khổ, cần tu tinh tấn mới thoát luân hồi sanh tử. Nếu không tu học khi đối nhơn tiếp vật không chơn lý, không trí tuệ, chỉ sử dụng bằng tâm sân nộ, ích kỷ, hẹp hòi, nhỏ mọn, cống cao, ngạo mạn, đối đãi bằng những điều dốt nát, chỉ làm phiền lụy mọi người. Là đệ tử Phật, chớ coi thường giáo pháp, cần tu học rộng rãi, học cho thông thấu thấm nhuần, học được một điều thì con người sẽ mới thêm một điều. Tâm biếng nhác dãi đãi chỉ có số vốn ít oi, hiểu biết giới hạn, mãi như vậy không tiến bộ, không tinh tấn thiền định vượt qua khỏi biển mê của nghiệp thức. Vì còn nuôi dưỡng vô minh tại cõi lòng nên không thể cứu mình và cứu người được. Công ơn của Đức Phật rất sâu rộng, thật dày công cực nhọc mới để lại Tam Tạng Kinh Điển đến ngày nay, giúp ta mở khai trí tuệ. Ngài đã phát huy những giáo lý cao siêu, nhiệm mầu vi diệu, để lại nhiều kinh nghiệm giác ngộ độ khắp chúng sanh. Người Phật tử chơn chánh, trước tiên phải cố gắng ra sức tu học giống như Đức Phật. Trí tuệ Ngài siêu vượt tuyệt đối, khắp thế gian không tìm được. Có rất nhiều mối đạo ra đời, thuyết giáo nhưng kinh điển của Phật để lại nhiều hơn các Tôn giáo khác. Trí tuệ, đức độ của Ngài cũng siêu tuyệt không thể lường, đó là sự thị hiện ra đời, duyên rất lớn lao, vì thiếu phước, ta đành quên bỏ, như kẻ đang khát, bị nóng nực cùng cực, đủ duyên gặp dòng suối đang chảy, mà vẫn cứ đứng nhìn xuống dòng suối chảy mà khóc than, cầu khẩn, van xin cho hết khát, xin cho mát mẽ, không chịu tắm mát, không chịu uống nước, đành chịu nóng bức, chịu khát. Vì thiếu trí tuệ, không biết sử dụng dòng nước tắm cho mát, uống cho hết khát, đứng nhìn nước chảy đành bỏ qua cơ hội. Ta học giáo lý theo lời dạy của Phật, cũng cần học nơi đức hạnh, học hành động theo cách của Ngài, để ứng sử với chúng sanh ngay đời sống, giống như khi Phật còn tại thế. Nên tìm học Lịch Sử Đức Phật và Phật Pháp để mở rộng hiểu biết về bậc Đạo Sư. Tự chiêm nghiệm từ lời dạy đến hành động của Ngài để ứng dụng, tu sửa cho bản tâm trong sạch. Ngài dạy đạo đức, dạy dân đối với vua, dạy dâu đối với cha mẹ chồng, con đối với cha mẹ, vua đối với quần thần, gặp người thiện ác sống bằng cách nào? Dạy cách sống đối với trí giả, ác giả đối xử ra sao, xây dựng công đức, đạo hạnh ngay đời sống khi tiếp cận với muôn loài, dùng đức độ mà đối xử với chúng sanh, đối xử đầy đủ bằng từ bi và trí tuệ bao la rộng lớn, vô cùng vô tận. Mỗi người đều có quang minh, đầy đủ trí tuệ, vì si mê nên mù quáng, tự phá hoại tánh giác của mình, phá hoại kiếp người làm mất bình thường, mất tự nhiên của bản tánh. Phật là trí tuệ giác ngộ, đến cõi đời, để sửa sang trang nghiêm cho thế gian tốt đẹp, dạy chúng sanh biết gìn giữ bản tâm, là nuôi dưỡng cho bản thể chơn tâm mở mang rộng lớn. Người tu, tự dò xét quán lại tâm mình, coi lại hiện tiền có biết thương yêu mọi người không? Lúc nào cũng giữ tâm hòa đồng cùng hoàn cảnh, hết lòng vì đạo, sẵn sàng cùng đại chúng, không nuôi dưỡng sa đọa vì bản ngã, là chỉ lo phục vụ riêng cho quyền lợi cá nhân mình. Tu có học cần đi đôi với thực hành, điều nói ra được phải thực hành được, mới là lời nói chơn thật, chỉ nói mà không thực hành là đại vọng ngữ. Có rèn luyện hành động cử chỉ tốt đẹp cao thượng, mới đem công hạnh đó đem ra ban tặng cho đời, thì họ mới nhận được những điều trân quý. Lòng từ bi tuyệt đối không còn sân nộ, nóng nảy, giận hờn, bực tức, oán ghét, ngã mạn, tự cao. Còn keo kiệt là còn tham lam, lòng hỷ xả là đại bố thí. Không bảo thủ việc làm của mình là đúng, sẵn sàng vui vẻ bỏ qua, xả bỏ lỗi lầm của người khác. Không chấp đúng sai, phải quấy, hơn thua, tốt xấu. Cuộc đời chẳng đúng sai, phải quấy. Các pháp vốn tự nhiên tùy duyên mà biến hiện, chỉ tại tâm niệm con người thiên lệch vì tham chấp, bảo thủ riêng cho ta. Vì vướng mắc vào biên kiến nên bốn đức lớn là từ bi hỷ xả là tứ vô lượng tâm, bốn tâm lớn vô lượng này rất khó sử dụng, dù thường có sẵn. Cần lìa bỏ ra khỏi tâm các vọng nghiệp là vô tham, vô sân, vô si mới vào được bốn tâm này. Còn tham giận, còn sân si thì không hiện bốn đức lớn này được. Tâm người học Phật phải tập giống như tâm Phật, thường xét tâm có từ bi hoan hỷ, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đã vượt qua các điều ác chưa? Pháp môn có rất nhiều, cần thông thuộc giáo lý mới điều phục được các pháp thế gian, tránh ô nhiễm bản tâm, cõi lòng mới chánh định thanh lặng. Đức Phật là ngọn đèn trí tuệ vô lượng hào quang, rọi sáng soi đường cho khắp chúng sanh tu tâm sửa tánh, tránh tu sai đường lạc bước. Trí tuệ là sáng đức độ, sạch vọng tưởng. Ta tu đúng theo kinh nghiệm của Đức Phật dạy, cũng sáng đức độ như các đệ tử của Đức Phật ngày xưa. Các Ngài đã đủ tài, đủ đức. Nếu có tài mà không có đức thì không gọi là trí huệ được, chỉ là trí thức. Trí huệ phải hòa vào từ, bi, hỷ, xả là bốn tâm vô lượng mới là Thiện Tri Thức. Có trí mà không có đức từ bi là Ác Tri Thức. Chỉ có Phật mới đầy đủ trí tuệ viên mãn, chúng sanh không thể nói trí huệ được. Đức độ phải hòa chung với tài năng, đức tánh là hỷ xả mới là trí huệ. Phật là giác, có danh từ là Hộ Minh Bồ Tát, từ cung trời Đao Lợi giáng sanh xuống trần vì thương chúng sanh mãi sống trong mù mờ, đau khổ, thiếu trí, thiếu đức nên Ngài giáng sanh xuống thế gian để giáo hóa, dẫn độ chúng sanh. Ngài đến thế gian có tên đặt là Tất Đạt Đa. Tài năng của Ngài là đức độ trí tuệ, đạo hạnh toàn vẹn, trải tâm bi thương chúng sanh, làm tất cả công hạnh, lấy mạng sống để đổi chơn lý.
Nguyên nhân xuất gia vì thấy bốn cảnh khổ trong đời, Sanh, Già, Bệnh, Chết. Ngài thấy tất cả đều khổ, thế gian chẳng có gì vui thật sự. Phật ra đi tìm chơn lý vì những điều này vì muốn giúp chúng sanh giải quyết sanh lão bệnh tử. Xuất gia tìm đạo giải thoát là mục đích chính của Đức Phật. Ngài đem chơn lý cứu khổ muôn loài, giúp chúng sanh giác ngộ, chí nguyện của Ngài được thành tựu là chánh đẳng chánh giác. Nếu tu mà tâm còn mong muốn niệm vào quyền lợi, danh vị, chức quyền, thế lực mà tu thì đạo quả khó thành. Người phát nguyện tu chí hướng đúng theo chơn lý, chọn đường tu mục đích duy nhất là tìm lại trí tuệ đạo đức, giác ngộ giải thoát ngay lòng ta, phải nhận lại bản tâm, ngoài ra không mong được gì ở thế gian cả. Nên Kinh Bát Nhã dạy, tâm thanh tịnh là tâm không vô sở đắc. Ta tu, nhìn vào cõi lòng thấy còn danh lợi thì chơn lý khó hiển bày. Đọc kinh phải nghiệm xét theo lời kinh, nghiên cứu tìm hiểu ý kinh là ý Phật dạy, để tìm mấu chốt chơn lý mà tu học. Kinh như chìa dùng mở khóa, để sáng suốt đi vào nhà Như Lai. Phải thật tâm tìm chơn lý, lòng kiên định tìm chơn lý là tìm lại tánh giác, cũng đồng nghĩa là tìm Phật. Vậy ta tìm chơn lý để làm gì? Tu là tìm đạo cao cả cho tất cả dục vọng, phải tự đem thân mạng ra cúng dường là bỏ tất cả niệm tham, bỏ hết tất cả niệm ảo vọng dẫn tâm vào thế gian vì mê lầm để đổi chơn lý giác ngộ. Chấp nhận buông xả sắc thân vì biết có thân là do bảy đại hợp thành lúc đủ duyên và sẽ tan hoại khi các duyên đã mãn. Giác ngộ các pháp tùy duyên sanh, tùy duyên diệt, không chấp thật thân đó là vô ngã. Không còn tâm niệm vướng bận vào thế gian, lòng tự tại, đó là không pháp. Muốn chứng ngộ điều này chí nguyện phải thiết tha, quên hẳn mọi sự đòi hỏi vì lòng ham muốn, thân tâm đều xả bỏ, không còn niệm nuối tiếc, mới là hết lòng cầu đạo giải thoát. Phải tự bố thí đầu là cắt bỏ cái đầu phàm tục, bỏ đầu thường chứa đầy tư tưởng, luôn biến hóa bởi niệm niệm diệt sanh, luân hồi lui tới, xoay qua trở lại nô lệ cho các pháp tham, sân, si. Hôm nay ta đang tham, sân, si, ngày mai gặp duyên đến tâm niệm vẫn biến hiện y như vậy, không xả bỏ được một chút nào, ác nghiệp mãi mãi là quyến thuộc của ta, vì mê cứ nuôi dưỡng trong lòng đầy ắp mà kinh nói chúng sanh vì mê nên chất đầy nghiệp ác có thừa núi cao. Thân đựng chứa biết bao tật xấu nên cõi lòng tạo xây hết khổ đau này đến khổ đau khác, đày đọa tâm không dừng dứt. Cõi tâm hiện tiền là địa ngục tại thế gian, do những niệm mê xây tạo. Muốn giác ngộ phải tự bố thí, cắt bỏ cái đầu phàm tục, là hạnh đức đại bố thí, là phước báu to lớn tột cùng vì đổi đầu phàm phu được đầu trí tuệ, chứa tràn ngập pháp bảo nhà Phật, đó mới là phước và huệ song tu. Người học Phật Pháp mà thiếu trí tuệ vì không lo tu, chỉ mượn giáo lý để diễn nói là dùng giáo lý làm đồ trang sức, đeo vào trang điểm phần vỏ bên ngoài cho mọi người khen tặng, ca ngợi, tán thán, chỉ tô điểm vẻ đẹp danh lợi, chưa biết dùng giáo lý để tu hành thâm thấu vào cõi lòng, sửa chữa bản tâm cho trong sạch. Giáo lý là thức ăn dùng nuôi dưỡng mạng sống cho bản giác chơn tâm, mới duy trì mạng mạch của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền Tăng. Tu là đem sanh tử luân hồi để đổi mạng mạch Phật pháp, đó là tài năng đức hạnh của Thế Tôn, chí xuất trần của Đức Phật, không thối chuyển, không mòn mỏi, vì Ngài đã nhận rõ bốn cảnh khổ của cuộc đời, dù sống trong giàu sang, hưởng thụ mọi sung sướng, được ăn ngon, mặc đẹp, tài sản đầy ắp, cũng không qua khỏi khổ nạn sanh, già, bệnh, chết. Phật xuất gia vì chí nguyện giải quyết tứ khổ hồng trần, chỉ có tu chứng đạo quả mới ra khỏi biển khổ rừng mê. Nếu biết giáo lý mà không ứng dụng thực hành, tu sửa ngay bản tâm, thì giống như người đang chịu nóng nực, đang khát nước, hiện tại lội dưới nước mà ngậm miệng không chịu uống nước, đành chịu khổ vì nóng và khát. Vẫn ở trong chùa, vẫn xuất gia học giáo lý, mà không tu sửa tâm thì như người bơi dưới nước mà không há miệng uống nước, đành chết vì khát. Tu mà trí tuệ không hiển hiện vì tâm là cõi vô minh, mãi mãi vẫn ở trong tăm tối, quang minh chưa xuất hiện. Lòng còn đeo mang đầy ác niệm nên nghiệp ác không giải tỏa, tâm không thấm nhuần đạo đức, giáo lý ngay trước mắt. Đạo ngay trước mặt, chỉ tại ta không chịu xả bỏ bợn nhơ là các tà vọng, tà niệm, giữ mãi lòng sân hận, ích kỷ, hơn thua... nên trí tuệ không bừng sáng, không khai thị ngộ nhập tri kiến được bản tâm.
Người hướng tu, tin Phật, tin pháp, tin Tăng trước tiên phải tìm đạo, không tìm chùa to, Phật lớn, không tìm người danh vị, tiền bạc, quyền lợi cho mình hay được gì ở cuộc đời, mà tìm thấy lại trí giác. Mạng sống là chơn không, là tâm giải thoát ra khỏi mọi dục vọng, dục tình thế gian. Người tu hạnh xuất gia bỏ người thân, bỏ gia đình, bỏ tài sản, bỏ địa vị, cắt ái, lìa mọi ái nhiễm để vượt khỏi thành quách vô minh từ lâu giam nhốt tâm người, bỏ tà niệm, tà vọng, tà kiến, bỏ ngũ dục là sắc, tài, danh, thực, thùy, vượt khỏi biển trần dục vọng, qua khỏi dòng sông ái, từng ngăn cách cản trở, chận đường hành đạo của người tu, trên đường tìm đạo chơn, thoát luân hồi, đó mới là tu tìm chơn lý.
Dấu Đức Phật đã đi rõ lắm
Khuyên chúng sanh cần bấm đi theo
Muốn tu đừng có sợ nghèo
Muốn làm con Phật chớ đeo lòng tà.
Đường Phật đạo đi vào bằng chí nguyện lớn là Đại Thế Chí. Đó chính là quang minh rộng lớn, có sẵn nơi mỗi con người, lòng dũng mãnh kiên quyết đem ra giữa cuộc đời mà thực hiện vào sâu kinh nghiệm thì mới đắc thành đạo giác. Đó là chí nguyện người hướng tâm tu theo đường tu của bậc giác ngộ. Tu là tìm lại đức hạnh, đạo đức, trí tuệ để sống với cuộc đời, ngoài ra không mong được gì ở thế gian cả. Bố thí là xả bỏ cho hết những tâm niệm cầu xin, mong muốn, không sợ mất những gì ở thế gian, mới nhập vào chơn lý, đó là bí yếu cần thiết của pháp tu. Khi cầm kinh lên tụng, dùng trí giác nhanh lẹ, tìm gặp hiện tiền tâm, nhìn kỹ tâm có ứng dụng thâm nhập vào lời dạy trong kinh không? Tâm là kinh, kinh chính hiện là tâm ta, gọi là tâm kinh. Kinh là tâm huyết của Đức Phật, lời dạy là kinh nghiệm tại tâm Phật thì tâm ta hiện cũng là tâm ta. Mà tâm ta đã thâm nhập lời dạy từ tâm Phật cũng chính là tâm Phật, nên tâm Phật và tâm ta vốn đồng, bình đẳng. Nhìn kỹ vào tâm hiện tiền, nếu vẫn là tâm của tà vọng, còn đang mong chờ cầu xin, còn muốn được điều gì trong lục đạo. Mục đích tụng kinh là tìm cho được chơn lý mới đúng pháp tụng kinh, tụng kinh là cửa vào chơn lý. Kinh là tha lực, là chìa khóa mở cửa trí tuệ, cầm kinh là cầm được chìa khóa của kho tàng pháp bảo để vào Như Lai Tạng Tánh. Tìm thật tâm là nhớ đường vào chơn lý, ta tìm chơn lý để làm gì? Là tìm nhớ lại gương sáng trí tuệ để thấy lại bản tâm, tu sửa trang nghiêm thế giới cõi tâm, chuyển hóa dọn dẹp đất tâm, hiện là Ta bà uế nhiễm trở thành thế giới an vui, cùng cực an lạc cõi tâm là Cực Lạc, tâm địa là Tịnh Thổ. Thực hành pháp tu như vậy là ta đã đi vào Đạo Tâm, sống bằng bản năng thanh tịnh cao thượng. Nếu ta tu sai đường vào đạo, sẽ có tâm chống bán lại Đức Phật. Cứ tưởng cho là tu, tu theo tà tưởng thì tu mãi mà không có trí tuệ vì chưa thí xả hết lòng tà.
Muôn việc khởi từ lòng sân nộ.
Là nguyên nhân thống khổ ly tan.
Thói quen con người là lòng sân hận, nguyên nhân làm trí huệ ly tán, mất đạo hạnh, mất chí nguyện người tu, mất dũng mãnh nên không ứng dụng được pháp tu tâm dưỡng tánh.
Gương sáng cuộc đời là trí đức, đạo hạnh đều sáng, sáng từ cử chỉ hành động, lời nói đến sự im lặng đều sáng, tất cả đều là pháp, là những bài học giá trị, quý báu, gương mẫu để mọi người học hỏi, thực hành giáo lý, biểu hiện ngay đời sống. Đức hạnh con người sẽ hiện rõ qua mọi hành động, trí tuệ là quang minh của bậc Thánh Nhân. Si mê sẽ hiện ra hành động từ tâm niệm của phàm phu tục tử. Giáo lý sẽ nâng cao đạo hạnh, cõi tâm không còn thấp hèn mà chuyển thành hạnh lành cao thượng, từ, bi, hỷ, xả mạng sống đã thấm nhuần tinh ba Phật giáo. Giáo lý chơn thật chánh minh, chỉ nói ra khi một con người thực hành đúng chánh kiến, chánh tư duy, sống dúng chánh đạo đó mới là bằng chứng thực tế, hiển hiện bằng hành động ngay đời sống, biết thí xả tâm niệm, không nói suông qua sự tưởng tượng. Phật nói, đó chỉ là cách tu giống như xây lầu đài trên hư không, mơ hồ như mây khói. Thực hành chứng thật qua cử chỉ, lời nói, hành động ngầm ẩn của ý niệm, có sẵn các pháp vô hình sẽ tác động mà hiện ra các pháp hữu hình. Nguyên nhân sanh khởi ý niệm từ vô hình, không chấp vào quan niệm tìm học giáo lý cho biết mà không ứng dụng tu, cứ buông trôi. Học giáo lý để tẩm ướp vào ngay đời sống hiện tại, để khi đối nhơn tiếp vật, sáng suốt giải quyết các pháp mà lòng không vướng trụ, mới là hiểu biết được mật ý của Thế Tôn đã dày công khổ hạnh đi tìm nguồn đạo thâm thúy tìm ẩn cao siêu, trong suốt cuộc đời cực nhọc tầm tu. Tại sao ta cần chiêm bái lễ lạy Đức Phật? Lạy vì tôn kính đức độ tài năng tuyệt vời, lạy đạo hạnh cao thượng của Đức Phật. Ta lạy đạo đức của Ngài, nguyện học theo, lạy công hạnh. Lạy chí tu nguyện lớn xuất trần, lạy sự chịu khổ nhọc hành đạo của Ngài để giác ngộ trí tuệ. Lạy sự xả bỏ danh lợi, bỏ tham sân si, lạy lòng từ bi. Lạy những lời dạy từ kinh nghiệm giác ngộ quý báu như châu ngọc. Lạy sự hy sinh cao cả, Ngài vì chúng sanh mà bố thí cuộc đời vương giả quyền uy. Lạy sự bố thí thân mạng phàm phu để đổi chơn lý. Lạy tài năng đã chiến đấu ác ma. Lạy đức độ cao cả siêu phàm, đã đem sáng suốt đến khắp thế gian... Nếu ta biết lạy Phật bằng sự giác ngộ như vậy thì một lạy tận cõi lòng vừa phát khởi, kính lễ thì phước báu không thể nghĩ bàn. Ta cần chiêm bái học hỏi, giữ gìn đạo hạnh tại cõi lòng, tự phát huy đạo đức để nâng cao trí tuệ thì tâm ta và tâm Phật không khác, đó là phương pháp bày tỏ lòng kính trọng Phật. Lễ lạy bằng lòng thanh tịnh, không cầu lợi, hằng tôn kính Đức Phật, không phụ bạc chí nguyện lớn lao, đó là tài sản từ lâu Phật muốn truyền đạt cho ta. Tu là lập chí, kiên quyết dựng cao cờ đại đạo chơn lý, là trụ cột cứng chắc như kim cang bất hoại, mới chiến thắng được thói quen cuộc đời, thắng mọi sự khổ, bằng tâm định tỉnh vững chắc, không suy động bằng gió bát phong, đó chính là chơn lý. Chơn lý ngay lòng an định của người quyết tu. Muốn thắng bệnh khổ phải thấy rõ thân là vô thường, do duyên họp tạm gá, lòng không đắm tham thân. Thân vô thường, có tan hợp nên có bệnh. Tâm an định là chơn tâm không có bệnh khổ, lúc nào cũng hiên ngang định tỉnh là sống với chơn lý dũng mãnh, chơn tâm trong sạch, rỗng rang, thanh tịnh, không dính nhiễm một mải trần nào cả. Chỉ vì chấp ngã, tưởng thế gian là thật nên đắm lụy pháp mà có khổ vui, còn mất. Cuộc đời đầy cạm bẫy, hầm hố, chông gai, gút mắc, đó là giá trị của cuộc đời, là các pháp huyễn hư, cũng là bản đồ, là Thiện Tri Thức chiếu soi vào ngay cuộc đời để ta tu tập, gọi là Phật Pháp bất ly thế gian giác. Cuộc đời là gian truân khổ ải, ta phải chấp nhận pháp đời nhất quyết vượt qua, sống thật sự với tâm bình an, thì mới chứng được đạo tâm. Chấp nhận mọi gian truân khổ khó, xây dựng an vui cho tâm ta và cho mọi người được sung sướng hạnh phúc, lòng không phiền não, coi hạnh phúc của mọi người là niềm an ủi lớn lao rộng lớn cho chính tâm ta, không còn tỵ hiềm, đòi hỏi. Nên Cổ Đức dạy :
“Con tạo lấy mà con không hưởng
Hưởng đạo mầu mới quý nghe con”.
Tập tu, cần hướng về giác ngộ, chơn lý đầy đủ mới tự độ và độ tha được. Ta nên biết rõ danh từ giáng sanh, đản sanh và thị hiện.
Từ cung trời Đâu Suất, Bồ Tát Hộ Minh đến Ta Bà bằng giác tánh tịnh minh, đến bằng ý cao đẹp, trong sáng, đến để cứu đời, không như chúng sanh đến vì vô minh, đến do nghiệp thức dẫn bởi oan trái chất chồng. Nghiệp con cái, nghiệp gia đình, vì nợ thế gian, nợ sự dính mắc từ vô lượng kiếp, chưa hề biết bố thí xả bỏ, nên phàm phu khởi niệm đến thế gian là trả nghiệp, gọi là nghiệp dẫn chúng sanh luân hồi hay đầu thai luân hồi chịu quả báo, không gọi là đản sanh, giáng sanh hay thị hiện. Nhưng cũng có bậc giác ngộ, do đã trồng căn lành, đời đời thường cúng dường các Đức Phật nên vẫn đến Ta Bà, đến bằng hào quang tỉnh thức, giác ngộ chơn lý. Tu học là phước báu to lớn vô cùng, khi được nghe học tu dễ thông suốt pháp Phật, hiểu giáo lý, chấp nhận sống bằng lời Phật dạy, thì trí tuệ hiển hiện rất nhanh lẹ. Danh từ giáng sanh, đản sanh hay thị hiện cùng tán thán bậc tôn quý ra đời, cứu chúng sanh.
Thị hiện là danh từ tán thán, tin chắc lúc nào cũng có Phật thị hiện tại cõi đời, vì sử dụng bằng pháp phàm phu nên không thấy được. Lúc nào cũng có hào quang Phật quanh ta trùm khắp. Trí tuệ Phật rộng lớn vô cùng, không ngằn mé, biết khắp thế giới mà không hề bị ngăn ngại, thường chiếu soi Tam Thiên Đại Thiên thế giới, biết rõ khắp chúng sanh si mê hay tỉnh giác. Vì ta không thấy được nên Ngài phải thị hiện, tạm mượn thân ngũ uẩn như ta, để truyền pháp mà giáo hóa. Trí tuệ là bản giác Như Lai cai quản khắp thế giới cõi tâm, hằng hà sa số quốc độ.
Giáng sanh có ý nghĩa quang minh từ nơi cao thượng mà hạ giáng xuống cõi trần, vào cõi hạ giới, cõi thấp hèn để cứu chúng sanh, chỉ vì thương muôn loài mà hạ giáng. Tự nguyện ứng hóa thân đến cuộc đời, dùng thần lực trí tuệ ứng hóa ra vạn pháp. Mượn tướng con người để ứng hóa ra vạn pháp, hóa hiện để tế độ chúng sanh. Tuy có thân ở giữa cuộc đời, mà lòng không mê đắm, nhiễm ô, không đọa vào ngũ dục. Khi mãn duyên, làm xong việc độ chúng sanh thì các Ngài thâu thần thị tịch, không còn sự hoạt động của thân, các Ngài trở lại thế giới vô hình vào tận hư không, nên ta thường niệm Nam Mô Tận Hư Không Biến Khắp Pháp Giới, Chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng Thường Trú Tam Bảo. Các Ngài vẫn thấy, vẫn biết khắp chúng sanh, mà trí tuệ là tự tại giải thoát. Nếu tại cõi đời, ta vẫn tu học theo giáo lý, tu đúng theo pháp giải thoát, vẫn có hào quang sáng suốt, quang giáng tiếp độ, giúp ta bằng quang minh. Tu cần tinh tấn để phục hồi trí tuệ. Tâm tự tại vô ngại vượt ra ngoài sống chết. Chết sống chỉ là ý niệm của con người, là sự thay đổi tướng trạng tùy duyên, khi giác ngộ biết rõ nhân duyên thì thì các pháp đến đi là chuyện bình thường trong muôn vạn pháp, tùy duyên sanh, tùy duyên diệt. Như cây héo úa thì lá rụng, là định luật tuần hườn của vũ trụ, chắc chắn là như vậy, dù luyến tiếc mà khởi niệm đau khổ đến tột cùng cũng không thay đổi được. Nên người trí tuệ, lúc nào tâm cũng tịch lặng, tịch nhưng vẫn ở trong hào quang sáng suốt, dù hoàn cảnh ồn ào mà lòng vắng lặng các pháp không vướng bận khổ vui, nên sự tịch diệt của Đức Phật không thể nghĩ bàn, theo ý niệm phàm phu mà diễn nói hết được. Trong thế giới vô hình, nếu sáng suốt thì đầy đủ trí tuệ, nhận biết rõ ràng, cõi lòng luôn an lạc, gọi là Thế Giới Cực Lạc. Nếu cõi tâm người là vô minh tăm tối vì tham luyến khi mất thân hay gọi là chết thì đau khổ tràn ngập, phiền não thương tiếc buồn tủi ngút ngàn, cõi tâm mãi mãi đọa vào tù ngục tăm tối, linh hồn còn điên đảo vào cõi vô hình mang đầy phiền muộn, sợ sệt, kinh hoảng, bất an. Thế giới này rất đau khổ, gọi là Địa Ngục A-Tỳ.
Đức Phật thị hiện, giáng sinh tại miền Trung Ấn Độ, là xứ sở thuần lương nhưng còn nhiều mê tính, tâm họ còn hướng về cầu xin rất nhiều, không có đạo nào dạy tu sửa chủ đích cho tâm cả. Đạo thì nhiều mà không dẫn tâm người trở về sự giác ngộ, làm cho tâm hạnh phúc được. Phật thị hiện đến thế gian, chọn cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng Hậu Ma Gia, cả hai đều là người nhân từ đạo đức, Ngài đến và chọn xứ sở Ma Kiệt Đà mà thị hiện. Hoàng Hậu mộng thấy voi sáu ngà đến. Ngà voi là vật quý ở thế gian. Sáu ngà sáu báu ẩn chỉ vào quang minh của sáu căn đã thanh tịnh là nhãn căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn. Sáu căn là sáu cửa, thường nương tâm thức mà sanh pháp. Lục độ Ba La Mật cũng là sáu báu dùng đối trị những đắm nhiễm của thế gian. Bố thí để vơi bớt lòng bỏn xẻn, ích kỷ, tham lam, tâm nhỏ hẹp. Dùng pháp bố thí để đối trị lòng tham. Trì giới để giữ cho thân khẩu ý trong sạch. Nhẫn nhục đối trị với tâm sân hận. Tinh tấn vượt qua mọi khó khổ cuộc đời. Thiền định giữ tâm an định, không duyên theo dục vọng. Trí huệ sáng suốt, hiểu biết vạn pháp vốn không là vô thường, huyễn tạm, sanh diệt tùy duyên để lòng không còn chấp ngã và chấp pháp. Voi sáu ngà chỉ vào sức mạnh của quang minh quý báu, đến bằng lục căn thanh tịnh. Voi hút vào hông bên phải, có ý nói tuy bên ngoài mang tướng con người, nhưng bậc trí tuệ đã giác ngộ chỉ đến thế gian để làm việc phải, việc thiện lành. Khi sanh Thái tử, Hoàng hậu tay vịnh cành vô ưu. Ý nghĩa vô ưu nói về nội tâm Hoàng hậu khi sanh Thái tử, cõi lòng bà rất hoan hỷ, không một chút ưu tư, sầu muộn, tựa vào cành vô ưu là cõi lòng tựa vào tâm Bồ Đề từ bi hỷ xả, chan chứa tràn ngập niềm vui. Tay bà vịnh cành vô ưu là nương vào sự an lành tốt đẹp. Thái tử giáng sanh vào ngày mùng 8 tháng 4, bên cành hoa vô ưu. Khi tay Hoàng hậu vịnh vào cây rừng, lòng bà rộ nở niềm vui, tâm vô cùng hoan hỷ, không còn một niệm phiền não, ưu sầu nên dù cây đó là loại cây rừng, mà ẩn dụ nói về tấm lòng gọi là cây vô ưu, đó là lúc Thái tử xuất hiện. Ngài vừa đản sanh thì cây cối đều nở hoa, nước ao, hồ, sông, suối dâng đầy, chim trên cây líu lo ca hát. Ẩn chỉ này tán thán đạo đức một con người khi giác ngộ đi đến đâu thì đức hạnh tràn đầy, đem hạnh phúc vui tươi, lòng từ bi trùm khắp, trí tuệ đến cuộc đới để sửa sang, bồi đắp cho khắp mọi nơi thêm tốt đẹp, tăng sức sống, đem nguồn tươi mát an ổn đến với muôn loài, thay đổi hoàn cảnh xấu được chuyển thành trang nghiêm, lộng lẫy. Kinh Pháp Hoa dạy, nếu Bồ Tát đến đâu, đều có hào quang chiếu sáng, cây cối sẽ đâm chồi, trổ hoa, đem tươi nhuận lợi lạc cho mọi người. Nghĩa là nơi nào có người trí tuệ lòng chơn chánh gọi là Bồ Tát đến, đem chơn lý nhà Phật khai thị, chiếu vào lòng người thì tâm bồ đề sẽ trổ hoa, trí tuệ cây giác ngộ sẽ đâm chồi, kết tinh tại lòng họ được trổ quả giác ngộ, trổ hoa trí tuệ, khai sáng đạo tâm. Khi lòng từ bi rộng tỏa bao la đến đâu thì thương yêu tràn ngập khắp loài. Không có ý sát sanh làm hại một sinh vật nên chim chóc không sợ hãi vì lòng từ trùm phủ xung quanh, chúng không sợ chết chóc, vì tánh thương người vật vốn đồng nên chim muông ung dung líu lo ca hát. Có vị tiên đoán tên A-Tư-Đà, thấy Thái tử có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Tiên A-Tư-Đà không nhìn Thái tử qua thân ngũ uẩn mà cho là đẹp, mà ông nhìn vào cõi vô hình, thấy ngay tâm hiện tiền của Thái tử, Ngài không còn tướng tham sân si, phiền não, tự cao, ngã mạn, ích kỷ, hẹp hòi, giận hờn, mê chấp, giành giật, độc ác v.v... Tâm đã hoàn toàn vắng vặng các dục vọng, không nhìn tướng bên ngoài mà ông nhìn vào thế giới cõi tâm của Thái tử, nhìn bằng trí tuệ. Thái tử đặt tên là Tất-Đạt-Đa, nghĩa là người giữ chức vị cai quản thế gian. Nhưng Ngài là bậc xuất thế nên cai quản cả Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Sau bảy ngày hạ sanh Thái tử vì vui thú việc đã làm xong, Hoàng hậu lìa bỏ cõi trần, trở về Cung Đao Lợi. Cõi Trời Đao Lợi vẫn còn ở trong lục dục, là cõi Thiên, còn nằm trong sáu cõi ham muốn nhưng nhẹ hơn cõi dục giới.
Thái tử càng lớn, diện mạo càng khôi ngô, rạng rỡ đức hạnh. Nếu người tâm hung dữ sẽ hiện tướng hung tợn, người độc ác sẽ hiện tướng độc ác, kẻ ngu si thì hiện tướng đần độn, hiền lành thông minh trí tuệ thì hiện tướng sáng suốt quang minh, phúc hậu. Thái tử là bậc Bồ Tát xuất thế nên thông minh tột bực, đó là những đức tánh tài năng, đầy đủ tướng tốt và vẻ đẹp. Không hiện một tướng gì là buồn phiền đau khổ, tâm hiện tiền, giờ nào, phút nào, đều trong sạch sáng suốt. Học Phật ứng dụng pháp môn là bằng lòng chấp nhận mọi hoàn cảnh thuận hay nghịch duyên, khi đến cõi lòng vẫn an ổn, biết tùy xứ mà kiết tường, lúc nào tâm cũng là cõi hoan hỷ, vô ưu. Sở dĩ Thái tử có sức mạnh phi thường vì nhiều đời Ngài đã từng bố thí thân mạng, từng đem thân cúng dường phục vụ cho chúng sanh. Ngài đem mắt, tai, mũi, miệng, ý, đầu để cúng dường, đã bố thí toàn thân. Bố thí mắt mà mắt vẫn nhìn vào pháp đời, nhãn căn vẫn thanh tịnh, không đắm nhiễm. Đã bố thí mắt tham muốn, còn mắt trong sáng dùng nghiên cứu kinh điển, làm lợi ích cho Phật tâm và lợi ích cho đời, đem mọi sự thấy nghe tu hành chuyển đổi. Tâm niệm không còn vướng bận, không thấy, không nghe, không muốn, không tham, không sân si gọi là chơn không, đã thí xả cúng dường tất cả pháp cho thế gian. Thí thân mạng, thí tâm là không còn vướng lụy vào một tâm nào. Ngày xưa, Phật đem thân vào rừng, tu sáu năm khổ hạnh, cho đến lúc gần bỏ xác thân đó mới là đại bố thí, đó là phước báu cho thân đời nay khỏe mạnh và có tướng đẹp, nhờ công đức vô thượng và phước đã từng lìa bỏ bố thí hết mọi ái nhiễm, đoạn dứt tà vọng ngoài thế gian, lòng không vướng còn bận. Ngày xưa khi ngài Huệ Khả đến cầu đạo với Tổ Đạt Ma. Tổ dạy, ngài Huệ Khả muốn cầu đạo giác ngộ giải thoát, phải đoạn tả bàn, nghĩa là phải chặt đứt đoạn lìa tả đạo bàn môn, chặt đứt tham ái, tà vọng. Vì nhất quyết cầu đạo, Ngài Huệ Khả hiểu lầm, ngờ là phải chặt đoạn lìa bàn tay trái là tay bên tả, Ngài dùng dao chặt đứt một bàn tay bên trái vì quyết lòng cầu đạo.
Thái tử có trí thông minh xuất chúng vì nhiều đời Ngài đã từng là Bồ Tát, dạy dỗ giáo hóa chúng sanh, từng đem ánh sáng trí tuệ đến cho mọi người nên phước báu hiện đời là trí tuệ thông minh, tuyệt diệu.
Sự tu học tùy vào phước báu, nhân duyên. Bởi căn tánh chúng sanh không đồng, trình độ sâu cạn vì nghiệp thức khác nhau, nên cần tiến tu không ngừng nghỉ, đó là đại sự nhân duyên mà Phật thị hiện đến cõi đời. Ta tu, cần nghiên cứu kinh điển thật kỹ, cần theo sát giáo lý mới mở rộng hiểu biết, nhờ thâm nhập kinh tạng. Nếu tu bằng tâm hời hợt bên ngoài, chỉ biết mù mờ, không chính chắn, trí tuệ Phật tuyệt vời sâu kín. Ta đừng ỷ lại có trí thế gian, tự cho là đủ sẽ rơi vào kiến thủ. Thói quen sống theo cuộc đời là đuổi theo danh lợi, sắc, tài, chỉ muốn thỏa mãn, hưởng thụ quyền lợi. Nếu được như ý thì đắm say cố giữ, đó là ràng buộc luân hồi. Phát nguyện tu, chí nguyện hướng về Đức Phật là hướng về tấm gương đạo đức, chiếu diệu soi đường, giúp ta vượt qua mọi trở ngại ràng buộc từ lâu khó bỏ. Nhờ kinh nghiệm của Ngài để lại mà hôm nay chúng ta mới có cơ hội tắm mình trong giáo pháp. Nhờ nước Ma-Ha gội rửa cho cõi lòng trong sạch, xả bỏ, sắc, tài, danh lợi, bỏ những điều làm cho tâm phải đau khổ bợn nhơ. Nhiễm đời càng lâu, càng nhiều, ta càng xa chơn tánh, chịu đọa lạc đắm lụy vào cõi thấp hèn, mãi say sưa trong tham muốn dục vọng, khó tìm đường giác ngộ, an vui. Học Phật chơn chánh, tu đúng chánh pháp nhờ đủ duyên lành, mới vào được con đường giác ngộ. Nên ta là đệ tử Phật, phải tỏ lòng thương yêu tôn kính đức Phật. Ngài đã vào rừng vô minh gai gốc, vượt mọi hiểm nạn của cuộc đời, dọn đường khai sáng đất tâm để lại vô vàng kinh nghiệm từ trí tuệ, ban cho tất cả chúng sanh thừa hưởng đến hôm nay. Hiện tại ta tu theo giáo lý Ngài, là chuẩn bị bước vào con đường chánh đẳng chánh giác, cần phát nguyện cương quyết, vượt qua mọi khó khăn, xa lìa tội lỗi thấp hèn, học và tu hành phải đi đôi, cần ứng xử pháp tu đối khi người tiếp vật, là tiếp xúc đối đãi với những gì thường có ở thế gian làm tâm đắm nhiễm, vượt qua những điều này rất khó. Nếu đời sống mà tâm hiện tiền lúc nào cũng thánh thiện, lời nói thiện, hành động suy nghĩ chơn chánh, việc làm bằng đạo đức, đó chính là chơn định. Định trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc, mọi nơi. Định trong trí huệ, hiểu biết sáng suốt, không phan duyên, niệm theo hoàn cảnh là chánh định, không tu bằng cách ngồi chết lịm tâm mà cho là định được. Chỉ là định khô, tà định, định còn trong cõi tăm tối, định mà tắt lịm quang minh. Chơn định là trầm mặc, tỉnh giác, tự kiểm tra tâm từng sát-na, lắng nghe dòng tâm thức tuôn chảy mà không một niệm trần sa vướng mắc. Được định này nhờ quả giác kết tựu, do nhân là các công hạnh, tạo ngay đời sống, thường giữ cõi tâm an lạc, phát huy đạo đức, tích lũy nhiều công đức là đạo quả của sự tu hành chứng ngộ trong tâm thiền định.
Pháp niệm Phật cũng không chấp vào âm thanh qua văn tự khô cứng, mà phải niệm bằng trí giác, niệm bằng hiểu biết, tự hỏi tại sao ta phải niệm Phật, phải biết tâm thật rõ ràng khi có tạp niệm xen vào, lập tức giác, buông xả cho dòng tâm niệm buông trôi, mãi mãi nguồn tâm không chướng ngại, vẫn trong sạch, không bị khuấy động vì phan duyên bởi tà niệm làm vẫn đục cõi tâm. Tà niệm là buồn, vui, giận, ghét, thương, lợi hại, khen, chê, tốt, xấu, niệm niệm vẫn khởi nhưng tâm hoàn toàn tĩnh lặng, sáng suốt, nhận biết trạng thái thay đổi chuyển biến của tâm thức, không để tâm chen lẫn suy nghĩ, tính toán, vui mừng, chê chán, lấy bỏ, diệt sanh hay mến yêu nào cả. Đó là phương pháp công phu tu tập, ngay đời sống hằng ngày cũng cần khít khao gìn giữ tâm niệm y như vậy. Khi đi đứng, nằm, ngồi trong tứ oai nghi đều giữ lòng thanh tịnh, sự an định là tâm thánh thiện hằng ngày, tạo cõi tâm được chơn thật định, tâm tỉnh giác nhờ chơn thật huệ, giúp tâm tự sáng suốt, pháp tu được thành tựu đều hệ thuộc vào sự tinh tấn tu tập đạo quả mới viên mãn. Học và tu gắn bó như một chứ không hai, không tách rời mà thành tựu được pháp tu. Phải giám sát chặt chẽ hiện tiền tâm, không lơi lỏng, sẵn sàng khắc phục cảnh giác trước mọi việc, mọi hoàn cảnh thật lẹ làng, giữ gìn ý niệm, lần lần tâm sẽ thuần thục, cách điều phục tâm ý được dễ dàng hơn. Nếu một pháp thông thì vạn pháp đều thông. Khi ánh sáng trí huệ chiếu soi thì khắp thế giới cõi tâm đều an định, không còn bị pháp tục lôi cuống bởi niệm khởi nữa. Niệm niệm đều là chánh niệm, không sợ niệm khởi mà sợ giác chậm. Có ý niệm chỉ vì bản ngã chấp thân là của ta. Nếu những gì cho là của ta đều là sợi dây vô minh, là nghiệp trói buộc, cột chặt tâm ta vào lục đạo luân hồi. Vì chấp là của ta nên cố gìn giữ, lo âu sợ mất mác, nên tâm mãi đắm chìm trong sa đọa, còn ràng buộc trong tam giới. Thái Tử Tất Đạt Đa là một con người đã ra khỏi thế gian đầu tiên bước lên quả Thánh, bước đầu cũng diệt lìa tham sân si, phiền não ra khỏi hiện tiền tâm. Ngài nhìn lại thấy chúng sanh lăn vùi trong mê đắm sa đọa chịu khổ đau, nên khởi lòng thương xót tìm cách đưa chúng sanh thoát khổ. Ngay đời sống, từng giờ, từng phút, ta xuyên suốt thực hành pháp tu, tâm thường chánh niệm, những hạt giống si mê vẫn ngấm ngầm ẩn chứa trong tìm thức từ vô lượng kiếp, sẵn sàng chờ duyên sanh khởi. Khi giáng trần, Bồ Tát Hộ Minh quên niệm sáng suốt ban đầu là xuống trần để độ chúng sanh, cũng nương vào thai mẹ, rồi lớn lên tập sống theo thói quen thế tục, có cơ duyên nhờ hạt giống giác ngộ lớn mạnh sớm nẩy mầm, khơi dậy chủng tử từ bi, Ngài vượt qua mọi thói thường thế gian, cất bước ra đi tìm đạo cứu muôn loài. Đầu tiên, Ngài cũng tìm thầy học đạo, nhưng chí nguyện cao cả là tìm đường giải thoát, nên sau khi học đạo chưa đúng con đường giải thoát đã chọn, Ngài từ giã ra đi và tự tu chứng ngộ đạo quả, khi thiền định dưới cội Bồ Đề. Ngài tư duy rằng, nếu một niệm thanh tịnh thì kết quả có một niệm an lạc, được hai niệm thanh tịnh thì kết quả được hai niệm giải thoát, kiên trì gìn giữ tâm niệm từng sát-na thì kết quả an lạc không gián đoạn, là thường giác. Vãng sanh là kết quả ngay niệm hiện tiền, không mong muốn đến vị lai thì sẽ được vào Tịnh Độ. Nếu lúc lâm chung mà cõi tâm gìn giữ được từ một đến mười niệm, thì tất cả niệm điều chuyển thành hạt giống giác ngộ, là nhân duyên hiện vãng sanh. Nếu đã sẵn giống giác ngộ, sẽ thấy rõ đường Cực Lạc ngay tâm hiện tại, biết rõ vạn pháp đều là ảo hóa nên không đắm đuối giữ gìn, liền buông xả, cõi tâm an lạc, tâm địa là Tịnh Thổ. Hiểu biết cạn cợt nhìn cuộc đời bằng sự thấy hời hợt cho đời là hạnh phúc, nhìn cảnh vật thiên nhiên cho là hữu tình thơ mộng, cho tình yêu là hạnh phúc mãi mãi tuyệt vời nên sanh niệm si mê, xúc cảnh sanh tình, sanh ái. Cần lập tức sáng suốt tìm pháp đối trị, chịu mất mác thế gian, dùng trí tuệ lập tức xả bỏ sự say đắm si mê, sẽ tự khắc phục cho tâm an định, đứng vững giữa cuộc đời. Cần hiểu biết thế gian thâm thấu bằng trí tuệ, biết cuộc đời là giả tạm, không khởi niệm vui buồn, hờn giận, ghét yêu, mến chuộng chúng sanh. Phật nói chúng sanh mười phần hết thảy bảy phần mê. Vì mê nên tâm ác độc, tham lam. Tâm si mê nên sanh ra tất cả hành động, lừa đảo sai lầm. Người đã giác ngộ sẵn sàng nâng đỡ, đem cho họ tất cả mà không khởi ý đòi lại, vì giống họ là mê muội thì họ đâu có gì cao quý mà trả lại cho ta, có chăng là sự phiền não đau khổ, nên người giác ngộ không mong được gì, không cần gì ở cuộc đời cả. Bản tánh chúng sanh là độc ác, tham sân, bỏn xẻn, não loạn, hiểu biết được điều này là hiểu biết được chơn lý. Giác ngộ là đã đứng bên bờ hạnh phúc, kẻ si mê thì bị đày đọa chốn ngục tù, nên phải có lòng thương mà thông cảm, giúp đỡ chúng sanh vì họ đang lặn hụp, giãy dụa trong tù ngục tham sân si tăm tối. Tâm là địa ngục a-tỳ, sự khổ mãi rình rập, thúc giục ta vì mê quyền lợi, cứ hơn thua tranh giành, sân hận nhau mãi. Chủng tử giác ngộ đã lìa bỏ bản ngã, dứt khổ đau. Vô ngã là biết sống chết, ăn mặc, tiền tài, danh vị không gì là của ta. Sự nghèo đói xuất hiện, lòng cũng không khổ, không vui là ra khỏi nghèo đói, bệnh tật là của cuộc đời. Nếu ngộ được các pháp thì ra khỏi những điều khổ, dù có pháp huyễn cuộc đời mới là bậc chơn tu. Chơn tu dù nghèo đói, khó khổ vẫn không than oán hay chán ghét, những gì khổ khó mà vượt qua được, lòng an ổn đứng vững giữa cuộc đời, không bị gió nghiệp lôi cuống, xả ly tất cả các pháp là chọn con đường đi thẳng rất tuyệt diệu của Như Lai. Khi dạo bốn cửa thành và dự lễ Hạ Điền, Thái tử nhận ra bốn sự khổ là sanh, già, bệnh chết. Loài người, loài vật tương tàn, tương sát hại nhau để tìm sự sống. Khi xem cày ruộng, có những điều thương xót làm cho Ngài đau buồn, thương chúng sanh vô cùng, nên lòng từ bi lớn mạnh phát khởi, vì giác ngộ cuộc đời Ngài tìm cách quyết lòng cứu chúng sanh. Duyên lành đã chín mùi, Thái tử gặp người tu sĩ đang đi bên đường, với tướng mạo trang nghiêm, khoan thai, nhẹ nhàng, thoát tục. Nghiêm là nghiêm trì giới luật, trang là trang trộng, trang nhã, thanh tịnh. Danh từ bằng chữ sĩ để chỉ để chỉ hàng cao thượng. Nếu là tu sĩ hay cư sĩ mà tâm là cõi lăng xăng, não loạn vào tham muốn, mong cầu, đòi hỏi là không giữ được tướng trang nghiêm, không mang chữ sĩ được. Tu sĩ là tướng người xuất gia, cư sĩ là tướng người tại gia, đều là danh từ chỉ vào người cao thượng. Ta cần biết rõ để tự gìn giữ trang nghiêm Quốc Độ cho đúng nghĩa. Đi, đứng, ngồi, nằm đều tự trang nghiêm cõi tâm mới là người chơn tu. Tự kiểm tra lại chính cõi lòng, nên khi đối diện tiếp xúc người tu, thấy đạo hạnh người tu sĩ là duyên lành phát khởi. Thái tử mới phát tâm nhận ra đây là diện mạo trang nghiêm gương mẫu, đó là bước đầu của sự phát tâm đi vào con đường tìm đạo. Nếu ta là người tu mà để mất trang nghiêm, sẽ làm chúng sanh phiền não, chán nản, bất bình, bất mãn. Tướng trang nghiêm được thể hiện phát xuất từ tâm, là đạo hạnh từ đức độ người tu, là tướng thoát tục siêu phàm của người tu sĩ. Tuy chưa mở ra lời nào mà Thái tử đã tỏ lòng cảm mến, vội vả đến chào mừng, và hỏi đến phương pháp tu hành với người tu sĩ. Người tu sĩ trả lời rằng “Tu là quyết lòng lìa bỏ mọi trói buộc của cuộc đời, thoát khổ, thành chánh giác. Tu là phổ độ chúng sanh, làm cho họ giác ngộ giải thoát như mình”, đây là chơn lý. Lời tu sĩ phát ra xuất phát từ hạt giống giác ngộ, trùng duyên với hạt giống của Thái tử, nên duyên lành tại tâm của Thái tử có duyên sống dậy để hợp duyên, đồng duyên cùng nhau, chung một hoài bảo giác ngộ cuộc đời, giải thoát các pháp thế gian. Trở về triều đình, Thái tử xin vua cha xuất gia tìm đạo, vua phản đối. Thái tử xin vua nếu làm được cho thân người sống mãi, không già, không bệnh, không chết. Nếu muốn Thái tử ở lại triều đình thì giúp Ngài thỏa mãn bốn điều đã yêu cầu thì Thái tử sẽ ở lại để chăn dân trị nước. Có thân là mang tướng vô thường, sẽ già, bệnh, chết, còn trí huệ được khai thông khi bừng sáng thì mãi mãi không già, không mất, không sanh, không diệt. Nên kinh Bát Nhã dạy “Hết già, hết chết giả không có gì”. Thân xác là sắc huyễn sẽ bỏ đi, nhưng trí tuệ là lòng từ bi còn mãi không mất bao giờ. Bồ Tát Hộ Minh đem hạt giống trí tuệ từ cung trời Đâu Suất đến thế gian truyền cho ta, còn mãi đến ngày nay không mất bao giờ, đức độ vẫn thơm lừng, dù xác thân không còn nơi cõi đời, mà hương thơm trí tuệ, đức độ còn sống mãi, được người thế tôn kính, tạc vẽ hình tượng để tỏ lòng thương kính, tôn thờ hằng chiêm bái, lễ lạy, niệm nhớ đức độ siêu phàm thoát tục Ngài là bậc tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, đó là kinh nghiệm thực tế. Trí tuệ là kinh nghiệm để lại cho ta tu học gọi là kinh. Đức độ là lòng từ bi sáng suốt, còn mãi không già, không chết, không luân hồi, là gương lành rọi khắp chúng sanh, nương theo kinh nghiệm đạo hạnh người tu học cho thoát khổ.
Đạo Phật rất vi diệu, chỉ vì căn tánh chúng sanh rất nhiều trình độ, không đồng nên hiểu biết sâu cạn, cao thấp khác nhau. Phật dạy người tu có ba chủng giống : xuất thế tục gia, xuất tam giới gia, xuất phiền não gia.
1. Xuất thế tục gia : là rời xa người thân, như cha mẹ, xa của cải tài sản, xa thân bằng quyến thuộc, xa bạn bè, xa người mình thương yêu vì chơn lý, vì chí nguyện xuất trần, giải thoát thế gian, là theo đường lối của Đức Phật, phải thật giống như chí nguyện của Ngài. Cõi lòng không còn luyến tiếc, chí xuất trần phải trên tình cảm, chỉ cần giải thoát, không bận bịu chuyện thế gian, không vướng trụ vào niệm ham muốn, buồn phiền vì ích kỷ riêng tư. Nghĩa là tâm không bị ràng buộc nhưng vẫn thương yêu giúp đỡ khi họ cần, tình thương đại chúng đậm đà thắm thiết, không hề có niệm phân biệt riêng tư làm vướng bận. Có xuất thế tục gia được mới xuất được phiền não gia. Thái tử đã giác ngộ được cuộc đời, biết thế gian là ràng buộc, nên đặt tên cho con là La Hầu La, ý nghĩa nói lên con cái là sự ràng buộc, trở ngại vô cùng, rất quan trọng trong đời tu.
2. Xuất tam giới gia : Người phát nguyện tu có đủ pháp, người muốn tu phước, người thích tu huệ, rất nhiều pháp tu nhưng phải biết hướng tâm ra khỏi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới là tâm niệm còn ở trong ham muốn, ràng buộc tâm vào danh lợi, tình, tài vì lòng tham không đáy, vì vô minh nơi lòng còn đầy ắp ham muốn, dẫn tâm vào sa đọa, làm nhiều điều tội lỗi. Cõi sắc giới đã giảm bớt dục vọng ham muốn, nhưng vô sắc giới vẫn còn niệm ham vi tế thỉnh thoảng nhớ lại, vì còn thức biến. Nếu không ra khỏi tam giới vẫn còn là chúng sanh chịu luân hồi. Nên Phật dạy người tu phải xuất tam giới gia, đây là pháp tự tu, tự độ, tự ra khỏi tam giới, không cầu nguyện van xin mà được, muốn ra khỏi cõi này phải xuất thế tục gia.
3. Xuất phiền não gia : Người sáng suốt trong tĩnh thức, nhìn thế gian bằng trí tuệ chiếu soi, thấy tài sản, của cải, biết phải sống bằng tâm nào? Đối xử với người thân như thế nào? Tu là thường đặt tánh giác, chiếu soi quang minh vào ngay nơi các pháp coi khi đối diện pháp tâm có lăng xăng, não loạn, lung lay không? Tâm có đứng vững, an ổn không? Tâm khởi vọng động vì đã duyên theo hoàn cảnh, tâm bị khuấy động nên vẫn đục mất tinh khiết. Vì vẫn niệm vào sự luyến tiếc, đắm mê nên biển thức xao động. Cần sáng suốt, giác ngộ, giữ gìn từng niệm, từng niệm, tư duy, tu khít khao, chặt chẽ mới nghe được tiếng lòng, để biết rõ thế tục gia là gì? Là những niệm còn vướng trụ vào khổ sầu, phiền muộn, tham, sân, si, ngã mạn, tự cao, ích kỉ… là những chúng sanh còn đang đau khổ tại cõi lòng. Cõi thế tục thấp hèn rất nặng nề mệt nhọc, các chúng sanh cõi này nhiều đời nhiều kiếp chịu luân hồi theo ta trong sanh tử. Họ là Cửu Huyền Thất Tổ, thân bằng quyến thuộc của ta, nhiều vô biên vô số, phiền não cũng nhiều vô tận, nên kinh dạy “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành”. Vô lượng vô biên chúng sanh là vô lượng vô biên tâm niệm bị ràng buộc trong thế tục, nhiều vô số vô tận trong cõi tục tại tâm người mê muội. Cần nhớ những quang minh gọi bằng danh từ là Bồ Tát đã tự giác sáng suốt tại lòng ta, mà độ khuyên nhắc, dẫn họ ra khỏi cõi mê lầm, đọa đày nơi thế tục, để qua bờ giác ngộ giải thoát. Thế tục là cõi có khả năng làm cho tâm mê đắm và nơi đây cũng có khả năng làm cho tâm người giác ngộ. Nếu thân ở thế tục mà tâm vẫn sáng suốt, sẽ đi lần càng thêm sáng. Nếu thân thế tục mà tâm vô minh, thì mãi đọa đày đau khổ. Minh thì từ sáng càng ra sáng, vô minh mê muội thì từ cõi chìm nổi lặn hụp mãi mãi trong tăm tối, u mê. Nên phải thường tu tập sống bằng tánh giác, thấy rõ sự biến chuyển thay đổi của thế gian, tự giữ gìn hiện tiền tâm dừng lại, an định bằng trí giác, tất cả tạp niệm là tham, sân, si, phiền não, danh lợi đều dừng lại là sống bằng chánh niệm, chánh định. Cõi tâm là chơn không, không còn chạy nhảy, đùa vui trong ngũ dục. Miệng nói chậm, không sẩy lời. Bước đi chậm bằng tâm vững chãi. Ý chậm là ngừng nghĩ niệm, lăng xăng. Học chơn lý, cần suy nghĩ từng li, từng tí mới giác ngộ. Trước hoàn cảnh ồn ào thế tục, phải nhìn kỹ coi hiện tiền tâm còn luyến ái tam giới không? Ra khỏi tam giới gia chỉ có bậc xuất trần Thượng Sĩ. Đem hoàn cảnh vật chất thế gian so vào tâm coi có còn mê đắm không? Còn sân, si, hỷ, nộ, ái, ố không? Hay tâm đã đứng lại rồi? Tiếp người, tiếp vật bằng trí tuệ thanh tịnh, không tiếp bằng dục vọng ham muốn là dừng các ác pháp, tại tâm đã thật vắng lặng. Khi biết hoàn cảnh là dục giới, sắc giới, vô sắc giới đến, thì coi lòng ta có ham muốn không? Nếu các pháp không ràng buộc vướng bận, làm tâm phiền não, lo âu, buồn thảm là đã ra khỏi phiền não gia, bước đầu của con đường tìm đạo được sống với chơn lý. Chơn lý chính là sự thật của thế gian. Khi bỏ Hoàng Thành ra đi, Thái tử tha thiết nhìn vợ con lần cuối cùng nhưng đó chỉ là lòng thương yêu của bậc giác ngộ, không thương ái như phàm phu, lòng thương tràn ngập trí tuệ từ bi, biết rằng nếu ta không đi tu, rồi đây vợ con, cha ta cùng tất cả người thân, khắp muôn loài vẫn khổ, vì không thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. Ngài sáng suốt tận tường tỉ mỉ nên lòng không lay chuyển, lúc đó Ngài vừa tròn 19 tuổi, lứa tuổi còn đầy ấp ham muốn. Nhưng lòng Ngài đã từng nuôi dưỡng hạt giống giác ngộ nên nhân là duyên lành, trí giác mạnh mẽ đâm chồi, đủ khả năng buông xả thế gian, tự vượt lên, hạt giống mê nhiễm tại tâm yếu ớt không thể tượng hình. Ngài dũng mãnh đi vào rừng sâu tìm đạo. Ý nghĩa đi vào rừng sâu là đi vào cõi tâm còn um tùm, niệm niệm vô số mê nhiễm, có đủ loài thú dữ là đủ niệm độc ác. Quán thật sâu vào cõi lòng, vượt qua mọi hầm hố chông gai trong rừng sâu vô minh, là vào thế giới tối tăm tận đáy lòng mà tìm đạo, vào sâu trong yên lặng. Tâm chúng sanh xưa nay là rừng sâu, đất địa rất um tùm, chằng chịt, khổ đau. Nhưng trong um tùm vẫn có sự yên lặng, thanh tịnh, ẩn ý kinh muốn dẫn ta trở vào tâm địa, vào rừng vô minh, tiến sâu vượt qua mọi hiểm nạn cuộc đời, nhổ sạch cỏ dại, gai góc, tối tăm, để tìm lại bản giác thanh tịnh, Niết Bàn tại tâm. Pháp có hai ý nghĩa, thế pháp và siêu xuất thế pháp.
Thái tử cho có thân là khổ nên dùng pháp tu khổ hạnh, nhịn uống, nhịn ăn, cho thân chịu khổ sở, dãi nắng dầm sương thật ghê rợn, cho rằng vì có thân nên khổ vì thân. Đạo Phật là đạo trí tuệ nên tu là đi sâu vào hiểu biết, không tu bằng cách hành hạ cho thân khổ thêm. Ngoài thế gian mê muội vì chấp lầm pháp, hành hạ thân chịu đau khổ vô cùng. Bậc đã giác biết rõ cuộc đời, vẫn chấp nhận được qua mọi cạm bẫy mà lòng không than oán, cùng chung gánh vác, chia sẻ nỗi khổ của cuộc đời bằng trí tuệ. Nếu chúng sanh càng mê chấp, hành hạ, chửi mắng, đày đọa nhau, thì ta cần giác ngộ bằng tâm thực tại, tự giác ngộ bằng sự yên ổn, không ai thấy ta hành đạo gì mà tâm vẫn định, cõi lòng luôn hoan hỷ gọi là hành mà vô hành. Không hành thân nhưng không chìu chuộng khi tâm đòi hỏi thái quá. Thân chỉ là dụng cụ, ta nhờ thân để tu. Giống như nhờ con ngựa, thân là ngựa nhưng lòng trong trắng sạch trong, tinh khiết. Thân trong sạch chở tâm qua bờ giác ngộ để bừng sáng trí tuệ. Thái tử nhận ra tu bằng cách hành hạ thân không hiệu quả nên quyết định ra đi tìm thầy tu học. Nhưng đến đâu, nhìn bằng mắt giác ngộ, Ngài thấy người đã tu mà toàn là tâm địa hẹp hòi, là bậc giác ngộ tâm trí huệ thênh thang rộng lớn như hư không, tâm ngu muội hà tiện hẹp hòi, chỉ giới hạn trong hoàn cảnh, trong đồ vật nhỏ nhoi, chấp những gì ưa thích là của ta, nên tâm ta chỉ là các pháp huyễn hóa. Nhà là của ta, xe của ta, vợ chồng con cái của ta nên tâm ta chỉ bằng cái nhà, cái xe, tâm bị hạn hẹp trong diện tích nhỏ nhoi là con cái chồng, vợ ta, giới hạn trong những pháp cho là của ta. Cái ta do nghiệp thức biến hóa, sẽ cột chặt tâm mãi mãi, không có cơ hội thoát ra, để nhập vào bản thể tự tại chơn không. Pháp bố thí, nhẫn nhịn là đem cho tất cả, không giữ gì là của ta, thì tâm niệm mới ra khỏi thế giới ngục tù huyễn hoặc. Đừng nhốt phạt, đày đọa tâm trong những cái ta, hãy ra khỏi cái ta, đừng niệm chấp nữa là lìa khỏi bản ngã. Bỏ cái ta ích kỷ, ta hẹp hòi, ta nhỏ mọn, ta tham mê, ta sân, ta si ái. Nếu biết buông bỏ bố thí những cái ta này, tất cả nghiệp về ta sẽ quá vãng, sẽ chết, sẽ vãng sanh, các niệm chấp ta này sẽ siêu thăng, thì đất tâm là Tịnh Độ. Không còn sanh niệm nhớ trở lại là bậc vô sanh. Tâm tịnh thế giới tịnh, tâm bình thế giới bình. Biết tiền không là của ta, vật chất không thật của ta, đều buông xả tất cả pháp, không làm tâm bận rộn vì khổ vui, thì cái ta không còn nữa, đã lìa mê thì dứt khổ. Buông xả được cái ta là tu chứng ngay cả cuộc đời và mãi mãi đời sau cõi tâm thường an lạc. Sau khi thực hiện pháp tu khổ hạnh không hiệu quả, Ngài nhờ bát sữa của người Du Mục cúng dường, để bồi bổ cho thân dần dần khỏe lại. Bồi là bồi đắp, bổ là bổ xung thêm những gì còn thiếu cho đầy đủ, giúp thân phục hồi khỏe lại. Ta tu, cũng đừng bạc đãi thân, cũng chẳng chìu chuộng thân. Nhờ có thân để tu hành, thân làm lợi ích cho chúng sanh, thân là dụng cụ, không mê thân mà cũng không phũ phàng thân. Dùng thân mà chiến đấu với ngũ dục, dục vọng. Còn lòng tham muốn là còn niệm vào thế giới của chúng ma, trong tâm đã có sẵn ma quân rất nhiều. Tu phải cần thân là thể lực, cần trí tuệ là Phật lực. Trí tuệ sáng suốt trong thân thể khỏe mạnh. Phật thị hiện có thân để chỉ trí tuệ cho chúng sanh. Có thân mà không trí tuệ cũng vô ích, có trí mà tâm bệnh hoạn, đau yếu, cũng không đem ý nghĩa gì đến cho cuộc đời. Thái tử ngồi dưới cội Bồ Đề phát nguyện “Dù cho thịt nát xương tan, nếu không thành đạo quyết không đứng dậy”, đó là hào quang Đại Thế Chí, sáng suốt tại lòng nhắc nhở. Chí nguyện lớn lao tại lòng, tự xác định, nhắc nhở phải tự rèn luyện chính khả năng mình cho vững chắc. Thành đạo là chí giác ngộ được sử dụng. Đạo Phật có thần thông nhưng ta là Phật tử phải biết thần thông như thế nào? Khi thâm nhập giáo lý xét vào cõi lòng thấy còn phiền não, liền tự giác buông xả, thì phiền não biến thành Bồ Đề, tâm mê biến thành tâm giác, đó chính là thần thông, thần thức. Có thông mới sáng biết được các pháp phàm phu, tự giác biến hóa chuyển niệm phàm phu vô minh trở thành niệm của bậc Thánh Nhân thông suốt. Niệm mê si là cõi địa ngục khổ đau, thần thức thông là nhờ nhớ đến Pháp Phật, biết chuyển hóa tâm niệm mê hóa thành niệm thanh tịnh, cõi lòng an ổn nên nhờ có thần thông biến cõi tâm hiện là si mê, thế giới của địa ngục biến tâm địa thành thế giới Cực Lạc, hưởng sự an ổn của Niết Bàn là nhờ có thần thông.
Khi đã Quy Y Phật, Pháp, Tăng tự nguyện tại lòng là suốt đời thề không sát sanh, không trộm cắp, không tà bậy, không nói dối và không cờ bạc rượu chè. Lúc chưa quy y đất tâm là cõi của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhờ hiểu biết, thực hành Pháp Phật, thông suốt giáo lý, quyết chừa bỏ mọi ác niệm ra khỏi đất tâm, thì tâm lập tức là đất trồng Bồ Đề, nhờ thần trí đều thông nén tâm địa được trang nghiêm tốt đẹp, biết biến hóa đưa tâm niệm về Thế Giới an lành. Từ những tâm niệm độc ác, biến hóa thành tâm niệm sáng suốt trí huệ, đạo đức nhân nghĩa, hoàn toàn trong sạch, nhờ thần thông quảng đại của trí tuệ, chiếu soi tuyệt diệu vô cùng, đó là sự thật chơn lý. Thần thông từ trí tuệ giác ngộ mới là chơn thật. Thần thông tà mị chỉ lừa gạt, dụ dỗ chúng sanh. Là Phật tử, cần sử dụng thần thông từ trí Phật, không sử dụng học thần thông ngoại đạo ngoài tâm, thành đạo không là thần thông phép tắc bên ngoài. Thành đạo là thành tựu được lòng từ bi tại con người, chịu đựng nhẫn nhục mọi sự khổ của chúng sanh, mà luôn vượt lên mọi khổ vui lòng an định vững vàng, tâm không chao độn. Tâm tự tại vô ngại là tấm lòng người có tâm Bồ Tát, đầu đội mọi sự khó khăn của chúng sanh, thành đạo là thành tựu trí tuệ sáng suốt, thành tựu lòng từ bi dũng mãnh. Tâm tràn ngập yêu thương, chấp nhận gánh vác sự khổ khó của chúng sanh đã nhiều đời, nhiều kiếp, từng cột chặt, đọa trong rừng vô minh, phiền não, chỉ có bậc đại hùng, đại lực, đại từ bi, đại trí tuệ mới dũng mãnh phát lời thệ nguyện này. Thành đạo là tự mình giác ngộ, còn giác tha thì giác hạnh mới viên mãn. Thương yêu cuộc đời là độ chúng sanh, đừng chấp lầm khởi niệm lợi dụng, nghĩ rằng chúng sanh phải độ mình, cung phụng phục vụ cho mình là sai chơn lý. Khi tâm vẫn đục, nhờ tánh giác cận kề, giống như thau nước đục, được viên minh châu rớt vào, nhờ sức chiếu sáng trong suốt làm nước trở thành trong. Tâm tà vọng, thường bị vẫn đục bởi có tà niệm xen tạp, làm tâm nhơ uế. Nếu có hào quang tánh giác soi vào, tâm sẽ thanh trong. Tánh giác cũng là lòng từ bi trí tuệ có khả năng phá tan mọi độc ác, tội lỗi, si mê, phá mọi đau khổ là nghiệp của chúng sanh, bằng lòng chia sẻ mọi khổ khó, đưa tất cả về đến cõi an vui, trong sạch, không còn nhơ bợn vì tội lỗi. Phật dạy pháp nhập định để tự lắng lòng, quán xét, soi rọi mọi sự khổ của chúng sanh quang minh từ tánh giác chiếu vào pháp giới thấy mọi chuyển biến, của dòng tâm thức, có vô lượng, vô biên thức sanh diệt mà vẫn thường sáng suốt tỉnh giác, thấu suốt rõ ràng, biết được huyễn chơn, không dính mắc vào tâm thức, gọi là nhập định. Nhập vào thấy vô lượng chúng sanh, thấy bằng quang minh, lắng nghe tận đáy lòng, biết tội lỗi chúng sanh như huyễn, như hóa, như bào ảnh, như bọt nước… vốn không thật. Vì tâm niệm chúng sanh nhiều điên đảo, tưởng thật có, chấp trụ mãi sa vào đau khổ. Vì pháp không thật nên các Bồ Tát mới giáo hóa, chuyển đổi vô lượng vô biên tâm niệm chúng sanh, là vô lượng vô biên tâm niệm phiền não, điên đảo vốn không thật. Chỉ có một niệm mê man, bất giác tưởng rằng tiền bạc, tình yêu, vui buồn, khổ khó là thật không chịu buông bỏ, mãi ôm giữ nên cuộc sống là triền miên đau khổ. Trong 49 ngày thiền định Đức Phật giác ngộ tại gốc cây Bồ Đề, tại sao kinh nói là gốc? Vì có gốc mới sanh cành, lá, ngọn, hoa, quả. Vô minh cũng là gốc nơi sanh ra vô số niệm si mê, ái nhiễm phá tan được phiền não, hết điên đảo nhờ có gốc giác ngộ, mới phá tan si mê, căn bản gốc Bồ Đề là trí sáng suốt tuyệt vời. Tu phải vào tận gốc, đạo là gốc vào tận nơi giác ngộ, mới dẹp tận hang ổ phiền não vô minh của chúng sanh, tại nội tâm Bồ Đề là giác ngộ. Thiền là quay vào nội tâm, vào tận hang ổ mới thấy được giặc ma là tà tâm, tà niệm, tà tư duy, tà huệ. Bên ngoài pháp đến chỉ là duyên tự đến tự đi, mà tại tâm là căn bản của gốc phiền não. Gốc là nhân phiền não, khi gặp duyên là gió nghiệp sẽ kết hợp, nên biển tâm thức khởi động mà sanh có pháp. Nếu không giác kịp vì chấp ngã, biển thức biến động lăng xăng quán vào tâm là quay vào gốc phiền não. Khai thông trí tuệ cho tánh giác bừng sáng mới có cơ hội dẹp sạch vô minh. Khi mặt trời trí tuệ bừng lên thì phiền não tự nhiên tan biến. Nên Phật dạy, ta đừng niệm vào tham, sân, si, phiền não mà cần tinh tấn niệm Phật, vì Phật là giác. Niệm Phật tức là niệm nhớ tánh giác, nhớ gốc tại tâm ta. Niệm Phật xuyên suốt là giác xuyên suốt để mở mang tánh giác. Nếu siêng năng, chuyên cần dọn dẹp, sửa sang đất tâm, là nhổ sạch cỏ dại nơi đất tâm, nhổ sạch các niệm si dại, chỉ săn sóc nuôi dưỡng cây Bồ Đề tâm, là cây báu giác ngộ, thường tưới tẩm vun bón Bồ Đề tâm bằng giáo lý, thì đất tâm là Tịnh độ thanh tịnh nhàn vui, chứng thành đạo quả, trọn thành Phật đạo.
Là đệ tử Phật, quyết lòng giữ gìn chơn lý, nhìn cuộc đời bằng mắt trí tuệ, không để ngoại đạo gạt gẫm, dẫn vào đường mê, đừng vì lợi lạc mà nghe theo cách xưng hô của thế gian thành mê muội. Những cuộc vui ở thế gian là tạm giả. Con người vì đuổi bắt, muốn nắm giữ pháp huyễn, khi tàn cuộc vui này lại tìm cuộc vui khác, nhưng đằng sau những cuộc vui đó, vẫn trở lại nguyên gốc khổ, gốc phiền não hằng có. Như người ở dười biển sâu lâu ngày, cố gắng dùng sức mạnh nhảy vọt lên thật cao khỏi mặt nước, vì không giữ phao là giữ giới luật, rồi lại rơi và chìm sâu dưới đáy biển. Nếu biết đời là khổ thì bằng lòng chấp nhận chịu mọi khổ khó của cuộc đời. Đời là biển khổ nên nơi nào cũng là khổ. Tập tu là tự giác từng phần, nếu ngộ được các pháp thế gian là huyễn, vô thường thì cõi lòng an định, hiên ngang, dũng mãnh, đứng vững giữa phong vũ cuộc đời, lòng không chán nản, ghét đời, hận thế. Phật dạy trong kinh Pháp Hoa “Tam cõi như hỏa trạch”. Cõi Trời cũng vậy, cũng nằm trong tam cõi, không nơi nào mà vắng sự nóng nảy, sân si, phải có sức chịu đựng vì chúng sanh cõi tâm ở trong nhà lửa, ta tu tập ngay biển khổ, bằng sức chịu đứng lớn lao, vượt lên mọi khổ khó. Nếu vẫn sống mà tâm mang đầy đau khổ, thì thân như đã chết. Tâm người sầu thảm là thân đã chết, biết thế gian khổ là biết y chơn lý, đó là sự thật của cuộc đời sanh, già, bệnh, chết, cũng là sự thật bất di bất dịch, không làm sao hết được. Chỉ nhờ giác ngộ, tự giữ gìn tâm, sống an ổn trong cảnh khổ, mà cõi lòng vẫn tự tại, giải thoát mọi sự khổ ra khỏi tâm, đó mới là thường sống với trí tuệ. Tâm được an ổn là nhờ giác ngộ, chớ cuộc đời không an ổn bao giờ. Tánh giác là thuyền bè nổi trên biển khổ, sẵn sàng đưa tay níu vớt người cùng cảnh, đem lên thuyền giác, cùng ở nơi biển nghiệp, như biết lên thuyền Bát Nhã, chèo thuyền giác trên biển khổ.
Gây chèo thuyền giác độ sanh,
Biển mê phút chốc biến thành ao sen.
Biết chèo thuyền giác giữa biển khổ Ta Bà, tự cứu mình và cứu người là giác từng phần. Tu mà không giác ngộ thì không đủ khả năng sống trong biển khổ, không thể tiếp độ chúng sanh. Cứ lăng xăng tìm kiếm các thú vui tạm bợ, còn tìm vui trong dục lạc là còn đem đến cho nhau sự đấu tranh giành giật, càng gây tạo thêm nhiều phiền não cho nhau.
Thái tử thiền định 49 ngày thành đạo, vì vô lượng kiếp trước Ngài đã là Bồ tát, chỉ còn những phiền não vi tế, nên đời này chỉ 49 ngày chiến đấu với ma quân, ma Ba-Tuần, ma dục vọng, ma tình ái, ma vương vì lòng còn vướng bận chút ít trần sa, như trái đã chín lần lần mới rụng, nên khi tu được giác ngộ, chiến thắng được tất cả pháp thế gian, không chỉ mới một kiếp tu, mà hạt giống trí tuệ của Ngài, đã được chăm sóc, nuôi dưỡng từ vô lượng kiếp trước. Trong điều nguyện thứ 18 của kinh A Di Đà nói “Nếu đến lúc lâm chung, ai giữ được từ một đến mười niệm giác, tức giữ mười niệm Phật, tâm không tán loạn, thì Phật sẽ rước về thế giới giác ngộ là thế giới Phật”. Nếu cứ chấp, niệm Phật sẽ thành công bằng những danh từ qua âm thanh khô cứng, mà tâm không giác biết được các niệm tham sân si còn hiện diện tại lòng, là còn đọa trong ba đường ác, làm điên đảo, não loạn cõi tâm đầy ấp bởi loạn trần, chưa thấy được bản giác, tức là chưa thấy Phật Tâm, thì không thể vãng sanh về thế giới Hoa Sen Cực Lạc được. Tâm mê không biết ác pháp, thì thế giới tâm vẫn còn mê loạn, vẫn còn các niệm phiền não sanh khởi. Chúng ác chưa vãng sanh thì thế giới Tịnh độ xa cách mười muôn ức cõi, muôn trùng. Người giác ngộ vẫn làm ăn mua bán, nhưng tâm khác người phàm phu, sống bằng tánh giác trong việc làm ăn, không còn khởi niệm hơn thua, giành giật, chửi mắng, lừa đảo, chen đua, gian lận, chỉ làm ăn sống nuôi thân khỏe mạnh để tu. Tuy bên ngoài vẫn làm ăn nhưng âm thầm trong nội tâm giữ tánh giác, luôn thanh tịnh, chỉ khác ở tâm, không khác bên ngoài, không khác việc làm, làm bằng chánh nghiệp, thì lúc lâm chung vẫn ở y trong niệm giác, tức niệm Phật. Giác là Hạ phẩm Hạ sanh, từ 10 niệm đến 100 niệm là Trung phẩm Trung sanh, tất cả đều ở trang ao Thất Bảo, Liên Trì Hải Hội. Tu cần nhất là giác ngộ, nhận định rõ các pháp bằng hiểu biết, thấy rõ tâm niệm bằng trí huệ vi diệu. Giác là chiến thắng giặc lòng ở nội tâm, tâm không sắc thái hình dạng nên khó nhận biết, đều ở cõi vô hình gọi là tâm. Còn phải thắng luôn ngoại cảnh, khi nghe người khác mắng nhiếc, sỉ ma, lập tức thỉnh mời tánh giác là thỉnh Phật, niệm Phật kề bên, thì nghe tiếng chửi như tiếng đờn thúc giục, khá tu mau kẻo trễ người ơi!.!.! Nghe tiếng khen chê đều phải giác là giác từng phần. Quên giác, cứ mãi cầu xin là mê tín dị đoan. Đạo Phật là đạo giác, nên đệ tử Phật phải thường giác, nhìn trực chỉ vào tâm, quán xét tâm bằng túc mạng minh, giác lần lần từng tâm niệm, tự tư duy quán xét, quay vào cõi lòng tìm nguyên nhân coi ta từ đâu đến đây. Bằng trí tuệ, nhìn lùi lại lúc còn nhỏ vừa biết đi, rồi lùi lại nữa khi chưa có mặt ta ở đâu? Chỉ là bào thai của mẹ, biết bào thai được tượng hình trong bụng mẹ, đến từ nghiệp thức vô hình. Hạt giống con người từ vô hình, chờ đủ duyên thì kết tựu. Duyên từ tâm thức cha, tâm thức mẹ, tâm thức ta, từ các duyên ái ràng buộc nhau, có khi đến với nhau vì nghiệp nợ nần oan trái để đòi nợ hay đến để giải quyết nhân quả cùng nhau. Tự hỏi tại sao ta lại làm người mới đời này hay nhiều đời? Nhớ lời Phật dạy, ta có mặt trên cõi đời đã luân hồi vô lượng kiếp, nhưng chưa kiếp nào giác ngộ được bản tâm hay hành Bồ Tát đạo, nên mãi xoay vòng trong sanh tử. Nếu biết được những điều này là đã tìm được nguồn gốc về quá khứ, có thân do một niệm bất giác, vì vô minh nên sanh khởi niệm, từ nghiệp thức duyên theo thế gian mà có thân tứ đại, sáng suốt tìm được quá khứ chính mình và biết được quá khứ chúng sanh gọi là túc mạng minh. Sau đó thấy được quá trình ta từ lâu trong tam giới là Thiên nhãn minh. Thiên nhãn minh là mắt trí, mắt thịt gọi là nhục nhãn, mà đằng sau tận cùng của nhãn căn là mắt trí tuệ. Thiên nhãn minh nhìn được sâu xa, nhiều đời, nhiều kiếp, thấy rõ nguồn gốc tại sao ta lại luân hồi, nhìn tận nguồn gốc sự khổ. Nếu bên ngoài có tướng mạo âu sầu, buồn thảm nên dùng thiên nhãn minh mà thấy tham, sân, si, phiền não tràn ngập cõi lòng. Nên khi có hành động, lời nói, cử chỉ của một con người thể hiện, ta có thể biết được trình độ, duyên nghiệp họ ra sao, có nhiều trình độ. Nếu mở lời sân hận, chửi mắng, thô tục, tham lam, ích kỉ, nhìn bằng mắt trí tuệ sâu thẳm vào tận cùng biết ngay người này đã tạo rất nhiều nghiệp ác, nhưng kiếp này vừa được làm người, mà hạt giống trước của họ rất nhiều nhân ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh rõ ràng. Một con người đang mang hình tướng xấu xí, nghèo đói nhưng tâm hồn thanh cao, lời nói êm dịu, hiền lành, biết nhường nhịn, tấm lòng tốt đẹp, thường đùm bọc, giúp đỡ người khác, thì biết người này đời trước đã làm điều ác, mà kiếp này biết sám hối, tự chuyển nghiệp, hiện đang ở cõi thấp hèn nhưng đời sau họ sẽ sanh về cõi cao thượng, vì hiện tại họ đang tích cực xây dựng bằng nhiều công đức để trang nghiêm cho đời sắp tới. Thiên nhãn minh là thấy tâm địa chính mình và tâm địa người khác, tự nâng dần trình độ cõi tâm càng ngày càng tốt đẹp bằng trí tuệ, sáng suốt chiếu soi, thấy và biết tất cả bản thể chuyển hóa của vũ trụ vốn là gì? Bản thể vũ trụ vốn là không. Là không nhưng tại sao lại có sông, núi, có người, có vật, có thiên hà đại địa, có mặt trời, mặt trăng? Tất cả đều do duyên hợp mà có nhiều pháp thành tựu. Nhà cửa khi chưa có tướng hình vốn chỉ là không, như có nhiều duyên hợp lại như duyên của cát, duyên của đá, duyên của xi măng, duyên gạch ngói, sắt, duyên từ tâm thợ xây cùng kết hợp, có tâm người... có rất nhiều nguyên nhân gọi là nhân duyên cấu tạo mới thành tựu pháp, thấy được nhân duyên mà thành tựu ngôi nhà thiên nhãn minh.
Lậu tận minh là chấm dứt không còn phiền não đau khổ, không còn rỉ chảy vướng bận nghiệp thức, vẫn ở trong phiền não mà lòng không đau khổ, nghèo đói mà không khổ, bệnh, chết không phiền não như vẻ mặt đang vui vẻ bỗng sa sầm đó là lậu. Cõi lòng đang thanh lặng, trống vắng, an ổn, chợt nhớ nghĩ vướng bận vào ham muốn, sân giận, ghét thương, còn tính toán phân biệt pháp trần, là còn rớt niệm đọa vào tà vọng. Chỉ có bậc thường giác mới chứng ngộ pháp này. Đức Phật đã từng tu vô lượng kiếp, đến kiếp cuối cùng mới chứng lậu tận minh thành chánh giác, nên Ngài nói “Ta đến đây việc đã làm xong”. Đạo Phật rất thâm sâu khó tìm, khó hiểu, khó tu, khó chứng ngộ. Người tu đến nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa thì tuyệt diệu vô cùng vì đó là cõi của tâm vinh quang hạnh phúc. Đường vào tâm rất khó nên Phật nói, Niết Bàn chính diệu tâm, vô tướng nhưng thật tướng. Đức Phật đã thắng nội tâm, thắng ngoại cảnh, thắng mọi dục vọng mới xứng danh là đại hùng, đại lực, đại từ bi, là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đó là sức mạnh trí tuệ, lòng can đảm, dũng mãnh từ con người, đã tiêu diệt xa lìa dục vọng ngoài, ngoại cảnh và trong nội tâm, thắng ham muốn, bỏ đam mê, nhờ ngũ căn ngũ lực là khả năng, sức lực sẵn có nơi mỗi con người. Tự chiến thắng dục vọng cám dỗ chính mình vì thương tất cả chúng sanh ở nội tâm và chúng sanh bên ngoài mà dũng cảm chiến đấu. Tình thương ban khắp nhân loại, không tư riêng cho cá nhân nào. Lòng từ bi của Đức Phật rộng sâu như trời biển, tha thiết bao la như từ mẫu, chan chứa đại từ đại bi. Người tu không có ý tu chỉ cho riêng mình được hưởng hạnh phúc, thọ nhận an vui sung sướng, mà tự diệt tiêu xa lìa mọi tham vọng của tâm ý, gạn lọc cho cõi lòng thông thoáng, dùng kinh nghiệm giác ngộ nơi bản thân mình, đem phổ biến, truyền đạt, nhắc nhở, làm kinh nghiệm, giúp chúng sanh cùng đi lên đường giác ngộ tốt đẹp của Đức Thích Ca Mâu Ni - Cha lành Đại Từ Phụ.
Tu là bỏ tất cả nghiệp lụy đam mê, bỏ thói quen yêu thích. Tài sản người tu được tích lũy là lòng hỷ xả, thí xả hết tất cả món tham. Nếu bố thí mà tâm còn tham cầu là bố thí để cầu lợi. Bố thí có ngoại tài và nội tài. Ngoại tài là tiền bạc, áo quần, cơm gạo. Thí xả nội tài là chịu cực nhọc, đắng cay, chịu dầm mưa dãi nắng, lòng không quản ngại, không sợ chết chóc, thiệt thòi, chỉ vì lợi lạc cho mọi người được hỷ lạc, an vui, đó là thí xả nội tài. Nếu thí xả mà còn nuôi dưỡng tâm đòi lại cho được phước, thì sự thí xả đó chưa phải là lòng từ bi, chỉ nuôi dưỡng cho tâm cầu lợi, có cơ hội lớn mạnh lòng tham. Quyết tu là phát bồ tâm mạnh mẽ, không mong được gì ở cuộc đời. Vì còn mong được các pháp thế gian, là còn niệm nhớ vào lục đạo luân hồi, còn mong trở lại cõi đời để tiếp tục chịu khổ. Các niệm tham đời chưa siêu thoát, chưa vãng sanh, nên đất tâm chưa an ổn, chưa phải là Tịnh Độ. Tâm Bồ Đề là tâm giác ngộ. Cần nghiền ngẫm từng câu, từng ý, từng lời Phật dạy, vì tôn chỉ rất sâu kín, cao đẹp, tuyệt diệu vô cùng giải thoát. Ngài phát nguyện tu vì muôn loại, vì đời đau khổ mà tu, không chỉ riêng cho cá nhân hay riêng cho loài người, mà tình thương chan rưới cho khắp muôn loài vạn vật, đó là Bồ Đề tâm thênh thang rộng lớn. Cần tích cực hết lòng tu vì đường tu đầy dẫy gian nan, thử thách, hiểm nạn, bao quanh, Cổ Đức dạy:
Nhiều thử thách đang vây con đó
Chớ ngã lòng công khó tiêu tan,
Việc chi còn ở trần gian
Là điều huyễn hoặc chớ mang vào lòng.
Khi các duyên đến, gặp nguy nàn, nạn khổ, nhất quyết không quay gót thối lui, biết đó chỉ là điều thử thách, dù sóng gió cuộc đời có vùi dập cũng chỉ ở bên ngoài, không ngã lòng, giữ vững chánh tâm, không vọng động, niệm theo pháp trần, quyết lèo lái con thuyền đại đạo dựng cao cờ chánh giác qua tận bờ giải thoát, trở về gốc Bồ Đề là gốc giác ngộ. Về gốc giác ngộ là thiền định trở về chơn tâm, đã chiến thắng ma quân. Bản thể chơn tâm có sẵn hạt giống giác ngộ, gốc là chơn tâm thường giác. Lòng từ bi chơn chánh là từ bi trong trí tuệ, không từ bi trong mù quáng, là không còn vướng mắc vào tà kiến vô minh. Đức từ bi này sẽ dẫn ta và cả mọi người thoát khỏi xứ sầu bi khổ não. Nếu từ bi không trí tuệ đó chỉ là từ bi ngu. Hào quang trí tuệ sẽ dẫn con người từ vô minh đi vào đường chơn chánh, xuất ra khỏi mọi ràng buộc của thế gian. Khi có một người giác ngộ, đất Phật sẽ tăng thêm một viên bảo châu, thêm một quả Bồ Đề diệu giác. Thêm một người giác ngộ, càng tăng thêm quang minh sáng suốt chiếu soi, tăng vẻ đẹp để trang nghiêm cuộc đời càng thêm quang đãng, cuộc đời vơi bớt phần khổ não. Có mặt vào đời mang bốn trọng ân, ân Cửu huyền Thất tổ, ân Thầy Tổ, ân đất nước đồng bào, ân đàn na tín thí, là mang ân của chúng sanh. Tất cả chúng sanh, vạn vật, vũ trụ đều đồng duyên, tương quan, hợp tan. Đời sống tu là đền đáp bốn ân sâu nặng, dưới cứu ba đường khổ. Ba đường khổ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cần tự cứu ta và những người còn mang tâm niệm tham lam, sân hận, si mê, ghen ghét, ganh tỵ, oán hờn, cố chấp. Họ thường ở xung quanh ta hằng ngày, chờ bậc giác ngộ đưa tay cứu vớt, tự tìm phương pháp chuyển mê khai ngộ. Tu để phục vụ chúng sanh, giúp cho chúng sanh giác ngộ là đền ân chư Phật. Phật là người giác ngộ đi trước và đã thành đạo. Người phát nguyện tu là kẻ đi sau và cũng quyết lòng tu thành đạo, phải làm những đạo hạnh giống như Ngài, là tự giác ngộ phục vụ khắp chúng sanh. Mê là còn vô minh, đắm say trong tiền tài, sắc dục. Giác là minh, đã mở mắt trí tuệ, thấy rõ các vật thể này, ta không chối bỏ cuộc đời, vẫn ở chung trong tài sản, của cải nhưng tâm niệm nào cũng sáng suốt, niệm nào cũng cảm thông, thường sáng suốt, cảm thông trong tài sản của cải, sẵn sàng đem ra bố thí, giúp đỡ khi có người cần san sẻ. Hoan hỷ, bố thí, lòng không nhớ đến pháp keo kiệt, bỏn xẻn hay bo bo giữ của, chấp vật thật là của ta. Không có quan niệm tu là bỏ người thân, bỏ con cái, bỏ gia đình. Họ cũng là sắc pháp, chỉ dùng trí tuệ mà đối xử với họ như thế nào, không gây tạo phiền não cho ta và cho họ, lúc nào cũng đem an vui trí tuệ, cùng dìu dẫn nhau điểm tô công quả, giúp mọi người đều giác ngộ, sống cùng với nhau tu giác ngộ, không còn luyến ái trong biển mê sanh tử.
Đạo Phật là đạo thâm huyền dịệu, mà căn cơ chúng sanh có nghiệp báo không đồng, tâm địa chứa nhiều mê độn, phiền não nhiều như bụi cát. đã muôn vạn kiếp, ta lặn hụp trong si mê lầm lạc. Vì tâm thức ám độn, khó nhận biết ý nghĩa cao thâm về chơn lý, đã lâu thường sống trong cõi tăm tối, u mê, đến khi đủ duyên, được chạm quang minh trí tuệ là hào quang bậc giác ngộ, phá vỡ vô minh, được khai thị tánh giác bừng chiếu sáng thì không khỏi chói mắt kinh hoàng hốt hoảng, khiếp vía vì sợ hãi. Dù ở trong cõi tăm tối nhưng mỗi người đều có mầm Phật tánh, hạt giống của chư Phật, cũng giác ngộ được khi đủ nhân duyên. Nên người giác ngộ độ chúng sanh, dù căn cơ trình độ họ chậm chạp như thế nào, đã là thiện trí thức cũng không nên chê chán, vì ngại khó khăn mà bỏ họ, khi họ cần, vì Phật tùy duyên mà hóa độ, hằng thuận chúng sanh. Phật biết tuy chúng sanh còn tăm tối nhưng mỗi người đều là sen, sen còn mọc trong bùn nhơ, đang chờ cơ hội tốt đẹp là đủ duyên, tâm sen sẽ vượt lên, trổ lên mặt nước thơm tho, hiện màu sắc vẻ đẹp xinh tươi. Mỗi chúng sanh cũng là Thánh tương lai và là Bồ Tát, Phật tương lai, khi đã giác ngộ vì Phật thành được, chúng sanh thành được.
Thánh với Phàm chỉ một bổn lai
Khác nhau kẻ tỉnh người say
Chớ ai cũng giống như ai đủ hình.
Cần hóa độ tất cả chúng sanh. Hóa độ là sự cải hóa, chuyển tâm người từ mê thành giác. Độ là đem kinh nghiệm nơi mình ra nhắc nhở cho người được sáng, còn an ủi khuyên lơn, dỗ dành, sách tấn cho thân họ không thối chuyển. Sự tu học là hóa độ, chan rưới cùng khắp chúng sanh, không giới hạn phân biệt giàu nghèo, sang hèn, ngu trí vẫn độ. Sau khi thành đạo, Phật đến độ cho năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Thập Lực, Ma Ha Nam, Già Bạc Đề, Phật thuyết bài Tứ Diệu Đế tại vườn Lộc Uyển. Là những đệ tử đầu tiên của đức Phật, Ngài thuyết luôn ba tháng, cho năm mươi lăm người Bà La Môn, đứng đầu là ông Da-Xá, tất cả đều xin quy y theo Phật, hợp cùng năm anh em A Nhã Kiều Trần Như. Bấy giờ tất cả được 60 đệ tử, 60 đệ tử đầu tiên được thọ đủ giới luật, Phật cho đi truyền đạo khắp nơi.
Giới luật là thuyền bè giúp ta nổi trên biển khổ. Giới ngăn chặn được vô minh, giới là tâm đăng, đèn sáng của mặt trời trí tuệ, phá tan được vô minh phiền não. Giới là tài sản quý báu, gọi là pháp bảo. Nhờ giới mà ta được hạnh phúc an vui, biết xa lìa tội lỗi, bỏ được những tâm niệm độc ác. Người tu cần trân trọng giữ gìn giới như giữ tài sản, phải trân trọng giữ gìn giới như giữ của báu linh diệu vô cùng. Quy Y là thọ Tam quy Ngũ giới, nhờ có giới luật giúp ta giác ngộ. Khi sắp nhập Niết Bàn, Phật dặn ngài A-Nan, “Sau này không còn ta ở cuộc đời, các ông hãy nhờ giới luật làm Thầy”. Quy y là trở về với Phật, Pháp, Tăng. Tam Bảo là gốc ba ngôi báu, là quy y ngay tánh giác, quy y về trí tuệ chơn chánh sáng suốt, quy y với tánh từ bi hỷ xả, quay về đời sống an lạc, đời sống của cõi lòng, là hạnh phúc tự do cho mình, còn đem lại lợi ích an lạc cho nhiều người khác. Ý nghĩa quy y rất trọng đại, rộng lớn vô cùng, không hời hợt, phớt lờ, theo ý nghĩa phàm tục của chúng sanh, chỉ biết quy y theo danh tướng bên ngoài, thì không biết bao giờ hết khổ được.
Khi Phật độ ngài Ma Ha Ca Diếp, là giáo chủ đạo thờ thần lửa, Ngài đã thu được 560 vị, vì nhớ lời hẹn xưa, Phật đến độ vua Tần Bà Xa La. Vua hâm mộ Phật nên tổ chức xây dựng Tịnh xá, thỉnh Phật lại thuyết pháp độ sanh. Xưa kia, vua đến xứ Ma Kiệt Đà nhìn diện mạo phương phi, siêu phàm thoát tục của đức Phật, khởi niềm ngưỡng mộ, căn dặn rằng “Nếu sau khi đắc đạo quả, Ngài nhớ trở lại độ tôi”. Nên sau khi độ được 5 anh em Kiều Trần Như, cùng 55 vị của ông Da Xá và 500 thầy trò của ông Ma Ha Ca Diếp, Phật tìm độ vua Tần Bà Xa La. Vua xây Tịnh xá đặt tên cho Tịnh xá là Trúc Lâm nơi rừng trúc. Vì chí nguyện tầm đạo nên Thái tử ra đi suốt 11 năm, không trở về triều đình. Vua Tịnh Phạn nghe tin Ngài thành Phật, truyền sai sứ giả thỉnh Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ. Tất cả có 9 người được lần lần phái đi thỉnh Phật, là 9 sứ giả ra đi biệt tăm không trở về. Vì khi đến gặp, nghe Phật giảng pháp, họ giác ngộ được cuộc đời, bỏ tất cả lợi danh, quên sự nghiệp, sứ mạng nơi triều đình mà xin thọ giới theo Phật xuất gia, ở lại Trúc Lâm Tịnh xá. Hình ảnh này tuyệt diệu vô cùng, lần thứ mười Ngài sai một cận thần thân tín là ông Ưu Đà Di thỉnh được Phật về. Đức Phật đã thuyết pháp độ rất nhiều người trong Hoàng tộc. Ngài ở lại Thành Ca Tỳ La Vệ 7 ngày, cảm hóa dòng họ Thích, có một số xin quy y xuất gia, như các Ngài : Nan Đà, La Hầu La, A Nan, A Nậu Lâu Đà... là những người trong hàng Vương Tộc xin xuất gia theo con đường xuất thế quang sáng của Đức Phật.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Long An, ngày 10 – 4 – 2012
Người biên soạn
NHƯ THÁNH











Tâm Kệ

Quay vào tự quán duyên xưa
Khi thân chưa có ta là chi đây?
Vô minh nghiệp huyễn sâu dày
Có thân thức nghiệp vô hình tạo nên
Bởi duyên sẵn giống tựu hình
Hỏi sao ta lại là người đời nay?
Luân hồi bao thuở trả vay
Vì vô lượng kiếp đọa trần tỉnh mê
Tử sanh, sanh tử quên về
Bỏ quên cội gốc chẳng hề viếng thăm
Mãi theo ảo vọng luân trầm
Mang thân khách tục vạn phần khổ đau
Hồng trần giả cảnh chiêm bao
Trí minh chiếu diệu trước sau tỏ tường
Quay vào tìm lại cố hương
Cõi lòng giác tánh tỏa hương ngạt ngào
Bồ Đề quyến thuộc gọi chào
Hào quang tỏa khắp tuyệt vời diệu minh
Tu lòng kiên định giữ gìn
Hiện tiền tánh giác giống in Phật ngài
Thốt lời ái ngữ mới tài
Nghĩ suy Thánh Thiện Đức Tài song song
Lòng giới hạnh chẳng cầu mong
Ý thanh an định thong dong cõi lòng
Niệm mà vô niệm thanh trong
Vô niệm tâm sáng hương thơm khắp miền
Trí minh chiếu diệu tâm thiền
Thiền không chết lịm cõi lòng tối tăm
Đó là định đã sai lầm
Định là dừng mọi huyễn đời lìa mê
Định là lòng chẳng chấp nê
Không thù, không hận, không mê sự đời
Không ích kỷ, không vẽ vời
Không yêu, không ái biết đời huyễn mê
Định tâm không chán, không chê
Định ngay cuộc sống không hề ghét ưa
Giữ lòng định lặng sớm trưa,
Không lay động nghiệp, tham si, não phiền
Không mê đắm lụy chư duyên
Đó là tự tháo oan khiên đọa đày
Không danh lợi, không sắc tài
Không vui, không khổ, không sầu, không lo
Là ta đã bước lên đò
Dẫn tâm Thánh Thiện lần dò về quê
Đường về hiểm nạn sơn khê
Nương vào Tánh Phật mọi bề mới an
Quán Âm cứu vớt tai nàn
Di Đà tánh giác quang minh sáng ngời
Nam Mô phát nguyện tuyệt vời
Đại từ Thế Chí cứu đời bình an
Kệ văn tạm dụng đôi hàng
Nhắn ai thiện hữu đạo tràng đồng duyên
Mau mau phá ngục não phiền
Vượt ba đường ác là duyên hiện tiền
Trở về thế giới bình yên
Lòng không điên đảo chinh nghiên thế trần
Đệ huynh ơi!.!.! Hỡi xa gần !
Tỉnh mau mới thoát phong trần này đây
Đôi lời dẹp vén thang mây
Cùng nhau ta nguyện đắp xây đạo lành./.

NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Như Thánh kính bút

Thành kính cúng dường






NGŨ THỪA PHẬT GIÁO
( Phần Nhơn Thừa )

Lời giảng : Tỳ Kheo Thích Minh Đức.
Biên soạn : Cư sĩ Phật tử Như Thánh.

TỔ IN ẤN VÀ PHÁT HÀNH KINH SÁCH THỰC HIỆN
Địa chỉ : THIỀN VIỆN MINH ĐỨC, PHOTOCOPY SĨ PHÚ, Tổ 3, Khu 1, Thôn Phước Thành, Xã Tân Hòa, Huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Điện thoại : 0972. 008727

Chịu trách nhiệm in ấn :
TK. THÍCH MINH ĐỨC
Biên soạn : NHƯ THÁNH.
Vi tính : PT. NGỌC VÂN
Sửa bản in : CHƠN MINH.
Trình bày : CHƠN MINH.
Bìa : TÂM PHÚC.
...TRỞ VỀ
THÔN PHƯỚC THÀNH-XÃ TÂN HOÀ-HUYỆN TÂN THÀNH-BÀ RỊA VŨNG TÀU