Bài giảng : TK. THÍCH MINH ĐỨC
Biên soạn : Cư Sĩ Phật tử NHƯ THÁNH
Thấy Lại Chính Mình
Lời Đầu
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !
Kính thưa Quý thiện hữu !
Xét thấy rằng thời kỳ hiện nay, người tu học Phật rất nhiều. Qua kinh nghiệm tự thân nhận biết rằng, con đường học Phật rất khó, may duyên nhờ sự giáo dẫn của Ân Sư ngày nay đã hiểu biết được phương pháp tu học chơn chánh theo lời dạy của Đức Phật. Nên dù tài trí còn hạn hẹp cũng nguyện đem công sức nhỏ này quyết tâm viết lại các bài giảng của Thầy và những điều được trải nghiệm trong quá trình tu học, đã được lợi ích cho tự thân. Sự vi diệu sâu mầu cao thượng Đức Phật để lại trong quá trình trên 2550 năm lịch sử là tài sản vô giá mà hôm nay chúng ta là những người có duyên thừa hưởng. Quyển sách nhỏ này tôi ghi lại lời Thầy và tâm sự cùng quý độc giả những điều tâm đắc mà tôi đã học tu, thực hành bằng tâm niệm cương quyết, hiện giờ được an ổn thân tâm. Nguyện tu tập hạnh trên bước đường tu, nhận học Phật hầu tiến đến bờ giác ngộ giải thoát với câu “DUY TUỆ THỊ NGHIỆP”.
NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT
NAM MÔ BỒN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT !
CLICK ĐỌC TIẾP...
Trong thời kỳ mạt pháp, giáo lý của Đức Phật có rất nhiều phương tiện, nhưng không có phương tiện nào thù thắng bằng PHáp Môn Niệm Phật mà chư Tôn Đức, Quý Thầy cùng Nam Nữ Phật tử đã hướng về bổn nguyện của Đức A Di Đà, tạo mọi điều kiện tu học, hướng về pháp môn Tịnh Độ, cầu vãng sanh, đây là một điều hầu hết trong hàng tu học PHật rất tâm đắc.
Kính thưa Quý vị !
Từ trước đến giờ Thầy chuyên tu thiền, nhưng pháp tu thiền định rất khó hướng dẫn. Từ khi nghiên cứu pháp môn niệm Phật thì con đường hướng dẫn rộng thênh thang để hướng dẫn. Nhất tâm kể từ hôm nay và cho mãi mãi về sau, Thầy sẽ hướng dẫn Quý Phật tử pháp môn tu niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc.
Để chúng ta có tư lương trên bước đường tu học, cần phải có sự hướng dẫn thực hành chơn chánh đúng theo lời Phật dạy mới được giác ngộ giải thoát.
Muốn hướng dẫn về pháp môn Tịnh Độ không phải là dễ. Từ xưa đến nay, theo lời dạy của Đức Phật, dù cho bất cứ ai giảng Kinh gì khi nói đến chân lý từ Đức Phật phải dựa vào Kinh Điển nhà Phật để tránh sự sai lệch phương hướng sự giác ngộ về tự tánh. Tổ nói rằng :
Bơ vơ trên quãng đường đời
Kia là hang vắng nọ thời rừng hoang
Thập thò mãnh hổ ác lang
Tâm con hồi hộp thiết tha nguyện cầu
Yếu thơ trước cảnh hãi hùng
Nhỏ nhen con thấy lạnh lùng thân côi
Đường về nhà đạo xa xôi
Đường theo sự thế thì thôi đoạn trường …
Vậy muốn tu học phải theo đúng đường Phật Tổ.
MINH TÁNH :
Có nghĩa là làm cho sáng tâm. Nếu tu mà không có mục đích làm cho sáng tâm, mà có ý đi cầu Thần thông huyền linh đem đến cho chúng ta, thì sẽ xa lìa bản nguyện của chư Phật. Vậy mục đích đến với khóa tu niệm Phật từ đây cho mãi mãi về sau không ngoài tự tánh, vì tự tánh Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn trực vãng Tây phương.
Như vậy ta phải tìm hiểu tự tánh như thế nào ? Trước tiên phải nói đến minh tánh tức là bản thể của tự tánh. Tự tánh vốn linh thiêng từ xưa đến giờ, mà ta cứ tìm sự linh thiêng tham cầu bên ngoài.
“Linh bất linh tại ngã”.
Vậy sự linh thiêng của ta ở chỗ nào mà nói là linh ? Ta phải biết, nếu cầu Thần linh ở ngoài thì có khi nào Thần linh cất cho ta cái nhà không? Hay chính ta phải cất ? Như vậy ai linh ? Ta linh hay Thần linh ? Nếu ta cầu có chiếc xe, vậy ta mua tạo chiếc xe hay Thần linh mua tạo cho ta ? Nếu vợ chồng êm ấm hòa thuận với nhau, yêu thương, giúp đỡ, kính trọng nhau là do Thần linh hay do nơi ta sống hòa thuận, nhường nhịn. Vậy “linh bất linh tại ngã” tùy nơi mỗi chúng ta, thật rõ ràng. Như nếu ai bỏ tâm mình mà cầu Thần linh bên ngoài thì chư Phật không ủng hộ, chư Bồ Tát không ủng hộ, chư Tăng không ủng hộ. Còn như ai trở về với bản tâm chính mình (Tự tánh quy y Phật) biết sống với tâm mình, vui buồn, khổ sở, lo xây dựng chính nơi tâm thì người ấy được chư Phật, chư Bồ Tát mười phương gia hộ, nhất là hiện tiền chư Tôn Đức Tăng Già rất ủng hộ. Vậy ta đã biết được sự linh thiêng chính tại nơi ta, phải luôn ghi nhớ tại bản tâm linh thiêng sẵn có chẳng ở đâu xa, vì Phật ở tại lòng ta chẳng nơi nào khác. Nếu ai còn hướng ra ngoài tìm cầu vọng tưởng mê muội: nào là bói toán, soi căn, cầu cúng thì đã đi lạc hướng của Tịnh Độ.
MINH tức sáng suốt, tất cả những gì ta cho là chướng ngại, như tường vách núi đá mà sự sáng suốt của tự tánh sẽ chiếu xuyên suốt tất cả, chẳng hề chướng ngại nên minh là sáng. Thí dụ: ta tu học chứng được tha tâm thông, thì đối diện người trước mặt ta sẽ biết họ đang khổ, đang buồn, họ đang lo lắng, sợ sệt. Việc này dù đèn pha chiếu cũng không thấy, nhưng chiếu bằng minh tánh ta sẽ thấy họ đang buồn phiền, đang bực bội hay đang vui vẻ đó là do sự chiếu sáng của minh tánh. Hiểu biết của ta, sự sáng suốt của trí huệ nếu càng ngày càng tinh tấn vượt lên sẽ chứng được túc mạng minh. Từ trước đến nay tưởng rằng chết sẽ hết nên rất là sợ, bây giờ nhìn lại trong quá khứ biết rằng ra đã từng sanh tử hàng triệu ức lần, quanh lên trở xuống. Vì tưởng chỉ một lần nên ta sợ chết, có câu “Đi vòng bãi biển cù lao, quanh lên lộn xuống cũng tao với mày”. Nay biết rõ đã luân hồi nhiều đời, nhiều kiếp mà đời nào cũng khổ, kiếp nào cũng khổ, nhiều đời ta sanh ra cũng đã khổ vì vợ, chồng, con cái, nhà cửa, ruộng vườn, tài sản, kiếp này luân chuyển kiếp khác mãi mãi xoay vòng như vậy cũng quẫn quanh bao nhiêu sự khổ đó là “cải lương tuồng cũ hát hoài”. Nếu ta không giác ngộ ra khỏi sáu đường trong lục đạo luân hồi thì cứ mãi hát tuồng cũ sanh, già, bệnh, chết. Nay khóc mai cười, nay vui mai buồn cứ như vậy xoay vòng trong lục đạo luân hồi, vốn không phải có, cũng chẳng phải không, các pháp đều như huyễn. Tổ Minh Đăng Quang dạy :
Pháp lành khởi vốn xưa là huyễn
Nghiệp dữ gây cũng huyễn mà ra
Mình bọt đậu gió lồng qua
Không căn không thật pháp là huyễn thôi.
Nếu ai giác ngộ sáng suốt thì không có luân hồi cũng như nhà tu, trại giam chỉ nhốt người có tội, còn người vô tội không thể nhốt phạt được. Vậy luân hồi là do tâm tạo nghiệp mê nên có luân hồi. Nếu không độc ác thì không có địa ngục. Không dốt nát, si mê thì không có súc sanh. Có ba cõi này là do tâm tánh ta sanh ra. Nếu sanh ra tự ta phải nuôi dưỡng nó, luân hồi tam ác đạo là do tâm sanh, lục đạo cũng do tâm sanh, người do tâm sanh, thiên do tâm sanh, làm Phật cũng do nơi tâm mà sanh ra, luân hồi chính tại nơi ta mà có.
Vạn pháp do tâm sanh
Niết Bàn do tâm tạo.
Pháp là Pháp vốn xưa không Pháp
Không Pháp mà cũng Pháp đó đây.
Soi ra không pháp buổi nay
Pháp nào pháp nấy nào hay pháp nào.
( CLKS )
Ta tu không giác ngộ vẫn bị luân hồi.
Trong kinh Phật dạy rằng, không ai có thể giải quyết cái khổ cho ta. Cha mẹ giải quyết không được, Thầy Tổ không giải quyết được, chỉ tự ta giải quyết lấy, nghĩa là phải niệm Phật cầu vãng sanh là giải quyết được mọi sự khổ ở thế gian ( niệm niệm phiền não được vãng sanh ).
TÂM RỖNG RANG :
Lục Tổ dạy rằng :
“Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. Tự tánh là bản thể thanh tịnh, không vướng bận một sự gì của thế gian. Nếu có duyên ta đứng nhìn mặt biển, thì tâm ta cũng rộng mênh mông giống như mặt biển. Tự tánh vốn rỗng rang rộng khắp mà ta lại trói buộc nó bằng tiền tài, tình yêu, sợ sệt, nhà cửa, xe cộ, đau khổ, vui buồn, thương ghét. Ta trói buộc nó lại, thế nên trong chuyện nhà Phật có câu chuyện rằng : có một Phật tử đến gặp Thiền Sư bạch rằng : “Bạch Thiền Sư con đến đề cầu giải thoát”. Nếu nghe người đến cầu giải thoát thì theo nhà Phật lẽ ra Thiền Sư phải vui mừng, nhưng Ngài không trả lời mà nói rằng : “Này con ! Ai trói con mà con cầu giải thoát?” Phật tử trả lời “Không ai trói con” “Nếu không ai trói con thì con đã giải thoát chớ còn cầu gì?”. Như vậy xét lại nơi ta coi ai trói ai? Phải thấy là tiền bạc trói buộc, nhà cửa, vợ, chồng, con cái, tình yêu, tham lam, ích kỷ, ghét ghen, hờn giận, oán thù v.v… trói buộc vì những điều này thì giải thoát điều gì? Vậy thì đâu ai trói ta chỉ vì tâm tham đắm, là nghiệp thế gian trói buộc chớ không ai trói buộc ta mà phải đi cầu Thần Tiên, Phật, Thánh, cô hồn, chiến sĩ, ông bà v.v… tự tánh vốn rỗng rang rộng khắp.
Bốn phương đâu cũng là nhà
Non sông đâu lại cũng là non sông.
Tâm rỗng rang là không dính mắc vào một niệm trần lao nào cả hoàn toàn vắng lặng, dứt hết các niệm lăng xăng.
Ta phải biết có nhà khổ nhà, có con khổ con, có của khổ của, có tiền khổ tiền v.v… đó là nghiệp trói buộc ta, nên phải thường niệm Phật để không còn niệm nghiệp khổ nữa. Chỉ nhớ một niệm Phật để làm giới luật, sẽ không còn trói buộc tâm ta. Khi xưa Phật dạy đệ tử, sau này không còn Phật ở thế gian hãy lấy giới luật làm Thầy. Nếu khởi niệm nhớ đến tài sản thì chuyển ngay thành niệm A Di Đà Phật. Khởi niệm vui, niệm khổ, niệm ghét, niệm thương, niệm yêu phải chuyển ngay niệm A Di Đà Phật, thì lập tức không còn trói buộc ta nữa, đó là đã ngộ được chân lý. Vậy chỉ nhờ một câu niệm Phật thôi nhưng thần diệu vô cùng, chỉ có A Di Đà Phật, một niệm thanh tịnh sẽ giải quyết được mọi khổ đau phiền não ràng buộc.
Vậy A Di Đà Phật phải trên tất cả mọi Thần linh, ta biết rằng sự thanh tịnh vốn rỗng rang. Phật dạy rằng, vì vô minh thiếu sáng suốt, không hiểu biết, cứ chấp thật cho tất cả là của ta nên mãi đau khổ, phải sáng suốt hiểu rằng ta là tất cả chớ không riêng một vật nào. Vì tất cả là một, một là tất cả, vì việc gì có hiện hữu hoàn toàn cũng phải đầy đủ nhân duyên (một là một niệm).
Người tu có bổn phận hoằng pháp độ sanh cứu đời nên hãy coi tất cả những người nữ lớn tuổi là mẹ ta, coi tất cả những người nam lớn tuổi là cha ta, người nữ, người nam nhỏ tuổi hơn ta là em là con ta, là bạn bè nhiểu đời, nhiều kiếp đã luân chuyển cùng nhau, đã từng gặp gỡ nhau chớ không chỉ một lần này thôi, không phải chỉ một kiếp là cha mẹ anh em, mà đã nhiều kiếp trải qua, từng là thân bằng quyến thuộc, vì vô minh ta cứ tưởng chỉ một kiếp này. Nếu chỉ một kiếp chết rồi hết, thì chẳng ai nói tới nhân quả tu hành gì hết, nếu biết sẽ còn thì ta phải tu. Trong kinh Phật dạy, nếu có người rất giàu, có tiền rừng bạc biển, tiền núi bạc non không biết đến bao nhiêu, nếu có sự báo trước một tuần nữa sẽ chết, với bao nhiêu tiền của đó có thể làm cho người đó hạnh phúc không? Nếu ta chỉ có một kiếp này mà ta chết luôn thì giáo lý nhà Phật không còn vi diệu nữa, ta cũng không tu vì chẳng còn gì cả. Đức Phật nói rằng : Các ông phải tin tưởng rằng tất cả trời đất có thể sụp đổ hoàn toàn, nhưng tánh linh thì không mất, nên Phật bỏ ngai vàng, tài sản, vợ con, quyền chức để vào rừng niệm Phật. Như vậy phải hiểu rằng tánh thanh tịnh không hề bị trói buộc. Nếu xét lại tự mình đã bị trói buộc hãy dùng chìa khóa trí tuệ A Di Đà đó là mật mã. Ta phải biết rằng, A Di Đà Phật phá tan mọi xiềng xích gông cùm, nên đến giờ phút lâm chung mà ta thấy ma chướng vây quanh phải nhất tâm nhớ A Di Đà Phật sẽ tan biến, nó rất sợ A Di Đà Phật.
Vậy A Di Đà Phật là gì ? Là linh diệu, là của báu của các chư Phật. Người nào quên A Di Đà Phật là mất tất cả của báu phải luôn luôn nằm lòng tự tánh A Di Đà Phật. Trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, trăm công ngàn việc cũng phải nhớ sự sáng suốt nơi tự tánh bừng sáng lên.
Tu thiền cũng là niệm Phật, tại sao? Người tu thiền mà không niệm Phật thì lạc vào các cõi khác, còn tu thiền có niệm Phật nhất tâm thì sẽ về thế giới Phật. Khi xưa Đức Thích Ca đã thành Phật rồi mà Ngài vẫn ngồi tu thiền, sau khi giảng xong thời pháp Ngài liền nhập vào chánh định. Ngài A-Nan và các đệ tử mới bạch, Thế Tôn đã thành Phật rồi mà sao còn tu thiền chi cho cực. Phật trả lời : “Này các ông ! Như hằng ngày các ông có ăn cơm không ? Nếu hằng ngày ăn cơm để nuôi thân, thì hằng ngày ta phải ngồi thiền để nuôi tâm, ví như người trồng cây tuy chưa biết bao giờ trổ bông trổ quả, nhưng phải ra sức tưới đến lúc đủ duyên sẽ trổ quả”. Người niệm Phật cũng vậy phải thường sống với A Di Đà Phật là nhân thì quả sẽ là sự tỏ ngộ được nguồn tâm sáng suốt nơi chính mình.
Người tu phải thông thấu, sáng suốt, người xem kinh phải thông thấu đó là trí huệ khai thông. Nếu như ta đem vàng bạc chất đầy trong quyển kinh và hỏi nó có biết gì không ? Hoàn toàn nó không biết, nhưng hỏi người tu giác ngộ lý kinh sẽ thông thấu cõi trời, thông thấu trong lục đạo, thấu suốt trong tứ Thánh, lục phàm, biết rõ Thanh Văn, Duyên Giác, La Hán, Bồ Tát, chư Phật như thế nào, vì tự tánh có khả năng thọ dụng thông thấu tất cả là vô lượng thọ, biết tất cả nhưng không hề chướng ngại một duyên vọng tưởng nào vì ưng vô sở trụ. Vậy nếu ta không thờ tâm này chớ thờ tâm nào ? Tu không ở đâu xa, ở tại lòng ta. Phật không ở trên non núi để cho người tìm kiếm mất công, Phật đang ngự ở trong lòng, mà người không biết, mất công tìm hoài. Ta phải tìm lại tại nơi tâm mình, nếu bỏ chỗ này là sai. Phật dạy trong Kinh, đạo Phật để cho người có trí, chớ không nơi người vô trí hay thiển trí. Dù học có bằng cấp Thạc sĩ, Tiến sĩ chỉ là trí thế gian. Phật trí khác với trí thế gian nên dù có cấp bằng thế gian cũng phải nhờ các nhà sư trí tuệ đến kính lễ cầu tu học đến giác ngộ mới có Phật trí, còn tất cả cái học ngoài thế gian này gọi là thế gian trí thế biện thông. Nhưng nếu ỷ vào trí thế gian sẽ làm cản trở việc tu học khai thông trí huệ của ta tự tánh vốn trong sáng, nên niệm Phật đến nhất tâm nghĩa là niệm đến khi không còn niệm vọng, niệm trần lao nữa gọi là vô biệt niệm. Tự tánh thật trong sáng ( tự tánh Di Đà vô biệt niệm ), lúc đó tâm mới thật trong trẻo. Nếu niệm Phật còn nghe tiếng niệm Phật, còn thấy biết ta đang niệm Phật thì chưa phải là vô biệt niệm ( vô ngã ), nên các vị tu theo Thiền Tông lấy vô niệm làm tông tâm sanh tức sanh pháp.
Ngoài pháp không tâm.
Không tâm là không tâm tạo nghiệp nhưng sự sáng suốt chơn thật vẫn hiện tiền, đó là lý chân thật hoàn toàn chỉ một mà thôi, không hai không khác, lìa các tướng huyễn giả gọi là nhất thật tướng. Tất cả đều có nhân duyên, Phật tánh vốn sáng suốt thanh tịnh.
Khi lầm lạc hay có duyên cõi trần nên khởi ra một niệm. Tổ dạy :
Thân thọ sanh từ nơi không tướng
Như giấc mơ do tượng hình ra
Người mơ tâm thức đâu mà
Trụ đâu tội phước đều là thành không.
Niệm này vừa sanh khởi liền nghĩ về tôi. Trong kinh Phật nói vì chúng sinh chấp ngã, tôi đúng, tôi phải, tôi tốt, tôi đẹp vì cái tôi này mà ta luân hồi. Tổ Minh Đăng Quang dạy :
Nếu ai nhận ý là tôi
Tức thời bị ý cuống lôi luân trầm
Dắt đi theo nẽo lạc lầm
Đọa chìm vào cõi tối tăm mịt mù.
Vậy vô biệt niệm là không còn nghĩ nhớ cái tôi, phải bỏ hẳn cái tôi niệm Phật để dẹp niệm tôi. Nếu nghĩ nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ là niệm nghĩ đến cái tôi, nên niệm A Di Đà Phật dẹp cái tôi. Niệm Phật mà còn nhớ tôi đang niệm Phật, phải niệm đến lúc không còn tôi niệm Phật, không còn ai niệm Phật mới là vô biệt niệm.
Kinh nói rằng : “ Vô ngã tức Niết Bàn”. Hiện tại phải tập không có gì là tôi cả, đến thân cũng là duyên kết hợp, chớ không là ai cả. Cứ lầm tưởng là ta, niệm đến lúc thật là rỗng rang không còn xót một niệm nào của tôi nữa đó là vô ngã “vô ngã vô ưu”.
Người sống với tinh thần vô ngã, không sợ nghèo, sợ khổ, sợ chết đó là giải thoát vì không còn tư lự tính toán gì cả. Lúc còn trong bào thai không có gì là tôi cả vì tập nhiễm của thế gian nên việc gì cũng chấp là tôi.
TỊCH nghĩa là vắng lặng, là không còn niệm nào, đó là vô tướng, không có gì cả, không thấy không biết, không còn vọng tưởng trần lao, hết thảy đều vắng lặng. Vắng lặng này không cầu ở đâu cả. Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt đầy đủ tất cả công đức, theo lời của Lục Tổ Huệ Năng : “Không ngờ trong tâm có tất cả, không ngờ trong tâm chứa muôn pháp”. Biết như vậy ta hãy trở về tự tu lấy nơi chính chúng ta, không còn vọng tưởng cầu bên ngoài vì Tổ dạy ngoài tâm không có Phật nào khác. Dù cho thân xác có tả tơi nhưng tự tánh vẫn còn nguyên vẹn, không mất một mảy may nào, gọi là “Bất tăng, bất giảm, bất cấu, bất tịnh”, không hơn, không kém từ vô thỉ vô chung đến bây giờ dù tu cho mấy cũng không thêm, dù phá tan thân xác do thọ nghiệp ở địa ngục nó cũng không giảm chút nào, chỉ có MÊ hay NGỘ thôi, ta phải thấy rõ chỗ này.
Nói về sự thường còn, thí dụ khi bị té rồi chết, nhưng trước khi chết nó vẫn còn biết. Vậy cho nên tâm này thường còn, nên biết rằng chỉ chết xác thân nhưng cái biết thường hằng không chết, chỉ thay đồi của sự luân hồi.
Khi đối diện với hoàn cảnh trong cuộc đời nghịch duyên rắc rối không còn cách để giải quyết, hãy nhớ rằng dầu nghèo, dầu khổ sở hay sẽ chết đi nữa nhưng tự tánh lúc nào cũng còn, thì tự nơi ta sẽ tan biến sự lo âu, hoảng sợ. Khi Phật còn tại thế Ma Vương đến nói rằng : “Này ông Cồ Đàm, hãy nhường ngôi Chánh Giác lại cho chúng tôi, vì chúng tôi cai quản ở thế giới này đã lâu rồi. Chúng tôi là Ma Vương, nếu ông không chấp nhận trao lại việc này ta sẽ xô ông xuống hố và chết”. Lúc đó Phật trả lời rằng : “Từ xưa nay Như Lai chưa hề nghe ai có khả năng xô Như Lai chết cả”. Dù người có quyền lực như thế nào, nếu giết được thân giả tạm nhưng không thể giết được tự tánh của ta, vậy phải hiểu rằng tự tánh vốn sanh tồn mãi mãi trong Kinh Bát Nhã rằng : Hết già, hết chết, giả không có gì. Phật dạy rằng dù cho trời đất có tan tành từng mảnh bụi nhưng tự tánh các ông vẫn còn mãi mãi được như vậy ta mới ham tu đó là lý do mọi người ai ai cũng năng nổ tinh tấn tu học.
Tự tánh vốn không có thời gian, vì nếu hỏi ta có từ hồi nào? Không ai có thể biết, hỏi đến kỷ nguyên nào sẽ chấm dứt, cũng không ai có thể xác định được vì Phật dạy không có thời gian (không đầu, không đuôi, không lớn, không nhỏ) vốn nó là như như bất biến bất lập thời gian, bất lập không gian, không đến, không đi bất động nhưng không thiếu vắng một chỗ nào vì trùm khắp mười phương ( hằng chiếu ).
Dù nghèo khổ, thiếu thốn, hoặc giàu có sang trọng, hãy nhận rõ tự tánh mà vui, đừng mặc cảm nghèo hèn, khổ sở, tại vì sao ? Tự tánh vốn chẳng trược, chẳng thanh, chẳng xấu, chẳng tốt, không lui, không tới, không tăng, không giảm như vậy tự tánh sáng suốt không thể nghĩ bàn, việc nghèo giàu là ngoài tự tánh đó là việc thế gian, người tu không đem chuyện nghèo giàu trao đổi được, vì Phật, vua, ta, Phật tánh đều giống nhau không khác, chỉ khác chỗ người sống với trí tuệ hay người sống theo vọng nghiệp, ở thế gian không đồng mà thôi.
Vậy tự tánh là sáng suốt trí tuệ, hằng còn mãi mãi của ta, phải phát triển đầy đủ đức tin rằng mọi người đều có Phật tánh. Trong kinh Phật dạy về pháp môn niệm Phật, Tịnh Độ có ba điều cần học Tam Tư Lương là TÍN – NGUYỆN – HẠNH. Nếu không đầy đủ đức tin thì tu khó thành công. Vậy đức tin này phải kiên cố rằng, đời đời ta sẽ là Phật, đời đời kiếp kiếp tâm ta không mất, thành Phật cũng tâm này, đọa địa ngục cũng tâm này, sáng suốt cũng tâm này, mê muội cũng tâm này, mê muội chỉ là vướng mắc vọng trần bên ngoài. Ta phải lấy tâm này làm tâm địa tu hành, không chọn gì ngoài tâm cả. nếu ta thờ Phật mà bỏ tâm mình là ta đã theo ngoại đạo vì Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật. Còn không có thờ tượng Phật mà vẫn thường sống với tâm sáng suốt trí huệ, không tham, sân si, phiền não là ta đã ở trong chánh đạo. Ta vẫn có quyền thờ tượng Phật, nhưng ta không có quyền bỏ quên tự tánh của ta, sự sáng suốt trí huệ, đó là đức tin chơn chánh, là chánh tín.
Ta phải tự tư duy thật kỹ khi nghe bất cứ vị giảng sư, pháp sư, Thiền sư khi truyền đạt giáo lý cho ta. Luôn luôn lúc nghe phải nhận xét bằng trí huệ và đặt dấu hỏi. Nghe phải tư duy, vì đạo Phật là đạo tự do, không lệ thuộc vào đâu cả. Đạo Phật là sáng suốt bình đẳng, không ai có quyền áp chế thế này đặt để thế kia. Không thể tin mù quáng mà phải sáng suốt hỏi lại chính mình, phải suy nghiệm lại coi vấn đề này có phải là phương pháp giúp ta chuyển hóa được tam độc tham, sân, si, ích kỷ, hẹp hòi hay không? Nếu còn những điều này thì ta chưa thực hành theo đúng chơn lý nhà Phật. Nếu chỗ nào còn nghi ta phải hỏi lại thật tỏ ngộ, vì bổn phận vị giảng sư, Thiền sư, Pháp sư - bổn phận người dẫn đạo phải có tâm nguyện lắng nghe, chấp nhận tất cả mọi ý kiến mọi người để làm ý kiến chung, lợi ích chung, hiểu đến đây ta đã thông suốt về chánh tín.
Sự ngờ vực của mọi người thắc mắc rằng không biết có thế giới Cực Lạc không? Nếu nói không có thế giới Cực Lạc thì ta tu để làm gì? Nhưng nói có thì thế giới đó ra thế nào? Ta phải tìm hiểu kỹ nên đến với đạo Phật phải thật rõ ràng. Tu pháp môn niệm Phật ta phải biết trước. Có nhiều người tu không biết, nên sẵn sàng nghe theo người bày vẽ, liều chết bỏ thân mạng vì Đạo nhưng không biết có đúng hay không? Có những người mù quáng nghe tuyên bố sẽ dùng phù phép để làm ăn cho giàu có, mạnh giỏi, việc này có hay không, tùy tâm lượng của người đặt để là vọng tưởng, ta phải xác định thật kỹ.
Phật dạy các ông niệm Phật ta sẽ chỉ cho các ông về thế giới Tây phương, giáo chủ nơi đó là Đức A Di Đà Phật, đó là cõi Cực Lạc ta chỉ các ông về nơi đó, ta phải biết nơi đó là gì ? Đây là chỗ rất quan trọng ta cần phải lưu ý cho kỹ, đã biết ta có tự tánh rồi, ta phải làm gì? Ta phải NIỆM PHẬT NHẤT TÂM BẤT LOẠN, nhất tâm xưng danh. Như vậy ai là người niệm Phật nhất tâm bất loạn, trong kinh A Di Đà dạy rằng :
Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật … đến nhược thất nhật trì tâm bất loạn, như có ai niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày nghĩa là thường niệm không một giờ phút nào quên bỏ câu A Di Đà Phật, cả ngày lẫn đêm, niệm đến nhất tâm bất loạn, ta không đưa về thế giới Cực Lạc thệ không thành Chánh Giác (thành Phật).
Trong kinh Phật dạy niệm Phật thành phiến đóng băng có nghĩa là không xen tạp một niệm nào khác ngoại trừ câu A Di Đà Phật, đó là nhất niệm là định. Vậy lúc nào ta cũng phải sống trong tánh giác niệm A Di Đà Phật không gián đoạn.
QUÁN TƯỢNG NIỆM PHẬT :
Nếu áp dụng pháp này phải có người chăm sóc, không tiếp xúc công việc hay niệm nhớ việc gì cả. Muốn cho người niệm Phật nhất tâm, cần phải được giúp đỡ để rảnh rang mọi việc.
Để tượng A Di Đà trước mặt, nhìn kỹ coi con mắt Phật bao lớn, đường cong mí mắt như thế nào? Chân mày ra sao? Cong tới đâu? Dài như thế nào? Lỗ mũi ra sao? Dọc dừa hay thằng? Phải để tâm thật kỹ, khóe môi, răng, phải dòm thật kỹ, mắt Phật ngó xuống như thế nào? Trong tâm niệm A Di Đà Phật, ngoài thì phải quán sát kiên cố, bất ngờ ngó trái cũng thấy Phật, ngó phải cũng thấy Phật, dù không nhìn tượng Phật vẫn thấy Phật, nhắm mắt cũng thấy Phật. Vậy người thực hành pháp quán tượng Phật giống như người thợ khi cầm khoan, đục là họ thấy Phật nằm tại tâm, nên mới đục sửa y như vậy. Lúc đó trong đầu, trong tâm họ có Phật, họ tạo hình tượng Phật được là do trong tâm họ có Phật. Như vậy quán tượng niệm Phật chừng nào có Phật nằm sẵn trong tâm, quán tượng Phật đã thâm nhập vào tâm. Phần đông vì không biết đúng như pháp để thực hành thường bị rơi vào cách “niệm Phật trả nợ quỷ thần” nghĩa là niệm lấy có, mà niệm lấy có không thể thành công vì miệng thì niệm Phật tâm thì niệm ma (nhớ ma), phải niệm Phật thật kiên cố, nhất tâm tha thiết.
Tất cả ai ai cũng biết mình có sẵn tự tánh rồi, phải tin tưởng nơi mình có đủ khả năng thành Phật. Phải biết thế giới Cực Lạc như thế nào? Trong kinh nói, nơi đó đường trải bằng vàng, ta xem lại trong kinh Phật có chỗ nói đến con đường đó không?
Đạo chính là con đường, mà Bát Chánh Đạo là con đường của bậc Thánh đi. Vì vậy ta phải bỏ cái phàm phu tục tử của ta, nghĩa là ai chứng được Thánh mới được đi trên con đường trải bằng vàng này ( con đường Bát Chánh Đạo ).
Vậy Bát Chánh Đạo gồm có những gì? Nếu ai không thấy cõi thế gian là sanh già bệnh chết, đau khổ. Nếu không thấy thế gian như vậy thì tu sẽ không thành. Thấy tóc bạc biết là sằp chết ; thấy răng rụng, chân tay run rẩy yếu đuối, hơi thở không đều hòa, không khỏe, đi đứng không mạnh như ngày xưa là đã gần chết nên sợ sệt hoang mang vô cùng, đây là một nhân tố thúc đẩy ta ham niệm Phật, vì thấy sự già chết cận kề. Còn như cứ dong ruổi theo dục vọng, ham muốn của cuộc đời, mãi lo ăn chơi, hưởng thụ thì người này khó niệm Phật vì không minh tánh, chỉ lấy ngũ dục-lục trần làm nhân thì không thể có quả Phật được. Tổ Minh Đăng Quang dạy:
Bơ vơ trên quảng đường đời
Thân ta biết gởi về nơi chốn nào …
Đức Phật đã dạy năm anh em A Nhã Kiều Trần Như đầu tiên sau khi chứng quả thánh Phật, đó là bài pháp dạy về Tứ Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế là gì ?
Thứ nhất là sự khổ của sanh già bệnh chết là khổ đế.
Thứ hai là Tập vì cứ tưởng thế gian là thật, tưởng thân này là thật, tưởng nhà xe là thật nên việc này gọi là Tập nhiễm. Thói quen này bị nhiễm, sanh thành tâm niệm trần lao. Ta cứ tưởng nó là thật, từ đó ta lăng vùi say mê dục lạc không ra khỏi. Đó là trong vòng lục đạo, cứ quẩn quanh, đời này kiếp khác, trong sáu nẻo luân hồi, do sự huân tập của thế gian. Ta nên biết Phật dạy, trên đời này có bốn cái khổ là sanh, già, bệnh, chết đó là bốn sự khổ lớn còn nhiều sự khổ khác không nói hết được, ta chỉ căn cứ nhìn vào sự khổ lớn này thôi để tìm đường tu.
Muốn hết sự khổ, không còn sanh tử nữa, ta muốn sanh về thế giới Cực Lạc, vậy phải làm sao? Sanh về thế giới Cực Lạc ở đâu?
Về thế giới Cực Lạc tức là hiện giờ phải tự quay về BẢN TÂM CHÍNH MÌNH, không còn sống với tâm niệm phiền não, tham, sân, si, mạn độc ác, hẹp hòi, ích kỷ. Phải trở về tự bản tâm THANH TỊNH, không dính mắc vọng niệm trần lao, tham dục, nơi đó chính là CỰC LẠC, không hề ô nhiễm một mảy trần, đầy đủ trí huệ sáng suốt. Người tu Tịnh Độ cần phải thông thấu triệt để việc này, mới không lạc đường, không bị rơi vào ác đạo. Không phải Cực Lạc A Di Đà để ở Tây Phương cho ta về. Trong Kinh Phật thuyết kinh A Di Đà rất rõ ràng, lúc bà Vy Đề Hy và trưởng giả Diệu Nguyệt ( sự vi diệu của tự tánh sáng suốt ).
Tại sao Phật nói thế giới Cực Lạc trong kinh A Di Đà, vì có nguyên nhân là vua A Xà Thế nghe lời Đề Bà Đạt Đa cầm tù, giết Phụ Hoàng của mình là vua Tần Bà Sa La. Tuy đã nhường ngôi rồi mà vẫn còn sát hại cha vì nghe lời Đề Bà Đạt Đa rằng “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc” nên hạ lệnh giết chết vua ở trong tù. Hoàng Hậu Vy Đề Hy tìm cách pha sữa bột trộn với mật ong thoa lên người, qua mắt lính gác ngục, cho vua dùng đở để sống, qua 21 ngày vua A Xà Thế hỏi vua chết chưa ? Họ trả lời vua vẫn còn sống. Tại sao? Do Hoàng Hậu Vy Đề Hy đem thức ăn cho vua, nên A Xà Thế ra lệnh giết luôn Hoàng Hậu nhưng triều đình khuyên can, từ xưa đến nay sách sử để lại, chỉ có con giết cha giành ngôi rất nhiều, nhưng con mà giết mẹ chưa có lịch sử nào để lại đó là tàn ác vô đạo, nên A Xà Thế không giết mẹ nhưng vẫn cầm tù bà. Vì bị cầm tù nơi cấm cung, nên tâm bà rất khổ sở. Trong lúc cùng cực đau khổ bà chỉ còn cách NHẤT TÂM QUY Y PHẬT, cầu nguyện với Đức Phật để được TỊNH NGHIỆP. Phật hiện tiền bà hỏi Phật có cách gì thoát được cảnh khổ này không? Đức Phật mới chỉ rằng : mười phương thế giới chỉ có thế giới Cực Lạc là hạnh phúc nhất, sung sướng, không có kẻ ác, không tham, không người giết hại không có sự nhơ uế xấu xa, nơi đó toàn là trong sạch an vui (đó là Cực Lạc tại tâm, vì những sự ác này cũng do nơi tâm tạo). Ta phải nhận thấy được chỗ này. Người giác ngộ nhìn thấy cảnh thế gian đầy ô trược, người đời thường nói con phản cha mẹ. Vậy có phản không? Nó không phản ta, nhưng vì sự ham muốn của dục vọng thấp hèn phát sanh, vì dục vọng này, sanh tâm độc ác, mù quáng không làm chủ được bản tâm thanh tịnh của tự tánh, mới hành động vô đạo như vậy, nên mới đồng khổ.
Nghiệp nhơn tội quả bao giờ
Biết chi phương hướng bến bờ là đâu ?
Lướt theo vọng ý mong cầu.
Đèo cao băng vượt biển sâu lao mình.
( CLKS )
Từ chỗ này Đức Phật mới chỉ cho bà Vy Đề Hy lựa chọn thế giới Cực Lạc không có các cảnh khổ não loạn. Thế giới Cực Lạc này toàn vẹn hơn thế giới nào cả. Vậy các thế giới Phật khác nhau như thế nào? Đức Phật A Di Đà dùng phước đức và nguyện lực hóa ra Cực Lạc thế giới vì Ngài làm chủ thế giới thanh tịnh tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật về đó. Có mấy thế giới Phật? Thế giới Phật có mấy hạng Đức Phật ? Đó là Niết Bàn của La Hán, duyên Giác Phật, Bồ Tát Phật. Những thế giới các Đức Phật này không toàn vẹn như thế giới Đức Phật A Di Đà. Có nghĩa là TỰ TÁNH DI ĐÀ đầy đủ tất cả. Theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói, không nơi nào bằng Tự Tánh A Di Đà Phật của ta, vì tự tánh đầy đủ tất cả, đó là do lời Hoàng hậu Vy Đề Hy thỉnh cầu chọn thế giới đó để tịnh nghiệp nên Đức Phật mới thuyết dạy kinh Di Đà này là pháp môn Tịnh Độ chỉ về Tịnh Thổ là tâm địa của mỗi chúng ta cần phải biết.
Ta muốn tìm đường tu thì phải có đạo vì đạo là con đường, con đường này gồm có tám tri, tri thứ nhất rất quan trọng gọi là :
CHÁNH TRI KIẾN :
Nếu ta tu mà thiếu chánh tri kiến thì tu uổng công. Khi xưa Đức Phật hành đạo, gặp một số người tu theo khổ hạnh, nhóm thì dùng cây đập vào mình, nhóm đứng phơi nắng, nhóm thời ăn uống dơ bẩn trần truồng, khi đi ngang qua Phật hỏi “Các ông làm gì vậy?” Họ nói : “Thưa ngài chúng tôi làm như vậy để đền ơn Cửu Huyền Thất Tổ cha mẹ ông bà chúng tôi”. Phật hỏi : “Ông đền ơn như thế nào hãy nói ta nghe?”, “Vì cha mẹ ông bà tôi tội nhiều lắm nên bây giờ chúng tôi phải tự hành hạ như thế này để trả ơn Cửa Huyền Thất Tổ”, Đức Phật hỏi “Vậy chớ ông có biết trả được bao nhiêu không?” Họ trả lời không biết, vậy Cửu Huyền trước kia làm tội gì? Ông có biết hay không? Họ cũng nói là không biết, vậy là các ông chỉ tu theo cái không biết. Còn đây ta sẽ dạy cho các ông tu cái phải biết, cho nên kể từ đây đến sau bất cứ ai giảng dạy ta cũng cần học hỏi chỗ ta phải biết, còn như tu cái không biết thì không nên nghe vì đó chỉ là vọng tưởng.
Vậy cái không biết là không nên nghe cần phải hiểu rõ ràng gọi là CHÁNH TRI KIẾN muốn biết ra phải tìm hiểu gọi là sáng suốt với trí huệ, ta phải nhìn kỹ biết được thế gian này có ai được sống hoài không? Việc gì bền chắc, vật gì còn mãi ở thế gian này không? Phật dạy những gì sanh ra vạn vật hiện hữu ở thế gian tuy có nhưng theo luật thành, trụ, hoại, không, cuộc đời huyễn vọng không có gì thường còn cả, đến con người sanh ra rồi già bệnh chết, Tổ dạy rằng :
Vật chi nếu có tướng hình
Thảy đều hư vọng mộng tình bông lông
Bằng xem tướng có là không
Nhận ra đức Phật khắp trong cảnh tình.
Nếu chạy theo cái đam mê không bền không chắc, không vững đó là không sống với trí huệ sáng suốt. Ta phải biết rõ nghiệp này do ai sanh.
Vạn pháp do tâm sanh
Nhất thiết do tâm tạo
Địa ngục do tâm sanh
Niết Bàn do tâm tạo.
Vậy mà những tham vọng này ai cũng cho là của ta, giận hờn ghen ghét của ta, cái mê muội của ta, vì cho nó là ta nên nó làm hại cuộc đời ta. Phải thật hiểu biết đừng cho là hên xui gì cả, như nước có lúc lớn lúc ròng ; thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa ; có ngày phải có đêm ; có người sang phải có kẻ hèn, con người có lúc ăn ngủ được khỏe mạnh có lúc lại không ; có lúc làm ăn phát đạt, có lúc suy sụp là lẽ tự nhiên, đừng cho đó là hên xui. Nếu nói hên xui là hướng đến mê tín, ta cầu may cầu bình an. Ta hãy xét lại trong giáo lý đạo Phật có dạy ta cầu may hay không … Chắc chắn là không ! Trong kinh Bát Nhã dạy :
“Vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa ta bà ha”.
Ở thế gian ta đừng nghĩ sẽ được này, được kia, được nọ, không được gì cả đâu. Vợ không được mãi mãi, chồng không được mãi mãi, con không được mãi mãi, vương quyền chức phận không được mãi mãi, công danh cũng không được mãi mãi, những gì yêu quý, đến bản thân ta cũng không còn được mãi mãi. Tồ dạy :
Thân này chưa biết ra chi
Của kia lại có chắc gì mà ham.
Vậy ta không được gì cả, nếu biết không được gì nên không chạy theo tham vọng, không ham muốn, không đòi hỏi nên tâm ta lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt, yên vui, không bị những lạc lầm làm mù quáng vì tưởng rằng tất cả là của ta, không gì của ta cả. Khi muốn làm gì một niệm liền khởi lên. Chư Phật chư Bồ Tát muốn làm gì thì một niệm khởi lên. Chúng ta cũng khởi lên một niệm, nhưng khởi lên làm chi niệm vô minh thiếu sáng suốt nên phải khổ. Thế nên, sanh người, sanh vật trôi lăn trong lục đạo sáu nẻo luân hồi đó là thường khởi lên niệm tham muốn, khởi cái niệm thèm khát để cho ai? Vì mê lầm tưởng phục vụ cho ta, đó là chạy theo huyễn bỏ chơn tánh.
Tu thiền nhìn xem Đức Phật ( tự tánh ) khởi lên vì thấy chúng sanh đau khổ, nên khởi lên lòng từ bi, hỷ, xả, khởi lên tâm độ khắp chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Phải biết xử dụng sự sáng suốt ( giác ) khởi lên như thế nào. Mê muội ( phàm phu ), khởi lên như thế nào ? Ta nên cần biết rõ chỗ này, gọi là chánh tri kiến. Nếu được tri kiến rồi thì đó là nguồn gốc của trí huệ, nguồn gốc của chơn chánh. Nguồn gốc của đạo là chơn lý, nếu như không có chánh tri kiến thì là vô minh. Đây là cửa bước vào Thập Nhị Nhân Duyên, từ vô minh sanh khởi bắt đầu vào con đường sanh tử, nếu thấu triệt được chỗ này chắc chắn sẽ hạnh phúc.
CHÁNH TƯ DUY :
Đa số người cho rằng ta đang tu nhưng hoàn toàn không biết đạo là gì? Tâm là gì? Phật là gì? Cứ chạy theo bên ngoài, theo mê tín dị đoan. Phải hiểu biết sáng suốt trí tuệ, không mê muội đó là chánh tư duy. Phật dạy khi thực hành pháp môn niệm Phật, người cư sĩ vẫn làm ăn mua bán bình thường, nhưng phải biết rằng ta là người đạo đi mua bán làm ăn với người đời, chớ không phải người đời đấu tranh với người đời, ta phải tư duy rõ điều này, chỗ này rất khó. Người đạo mua bán làm ăn như thế nào? Còn người đời mua bán làm ăn như thế nào? Vậy ta phải làm sao ? Vì phải làm tạo sự sống để ăn để tu. Ăn để sống chớ không phải ăn để nuôi dưỡng sự ham muốn. Vậy ta cũng mua bán làm ăn, nhưng phải luôn nhớ ta là người đạo mua bán làm ăn với người đời, chớ không phải người đời. tôi không còn là người đời, nên các vị bồ tát vẫn ở ngoài mua bán, mở công ty xí nghiệp mà công hạnh đức độ Bồ Tát luôn làm lợi ích cho công nhân, làm lợi ích cho mọi người có công ăn việc làm, có cuộc sống ấm no, lúc nào cũng thương yêu giúp đỡ mọi người. Trong kinh Phổ Môn dạy: muốn cư sĩ hiện cư sĩ, muốn tể quan hiện tể quan, muốn đồng nam hiện đồng nam v.v…
CHÁNH NGỮ:
Phật không cấm ta nói nhưng khi đối diện người nghe ta phải nói ra sao? Ta phải làm cách nào? Nếu họ chửi mắng thì sao? Trong kinh nói rằng, chỉ có A Di Đà Phật trừ hết cả nghiệp chướng trần lao, vì nghiệp chướng trần lao đến với ta, ta chỉ A Di Đà Phật thì sẽ tan biến liền, vì không còn niệm thương, ghét, hận, thù. Nếu quên A Di Đà Phật thì niệm nghiệp chướng trần lao sẽ phủ đầy. Những lúc khó khăn buồn phiền, đau khổ, sân hận đừng bao giờ quên A Di Đà Phật vì đó là linh dược vi diệu giúp ta dứt bệnh tật tại tâm. Ta không còn than phiền, trách móc, chửi mắng nặng nhẹ, dùng lời lẽ phàm phu tục tử nói thêm bớt xảo ngôn, ăn nói bừa bãi đó không phải là chánh ngữ mà là ác ngữ hay tà ngữ. Ta phải dùng lời Phật mà nói, chớ không dùng lời súc sinh mà nói, ta không ác ngữ thì đó là chánh ngữ ( Phật ngữ ).
Tổ dạy :
Nói chi mắng nhiếc tưng bừng
Lưỡi đào hố nghiệp biết chừng nào lên
Họa tai vì miệng mà nên
Bệnh căn vì miệng mà rên phù trầm
Ai ơi nghĩ lại kẽo lầm
Đóng bưng cửa miệng chớ lầm quỷ ma
Cũng thời lời nói thốt ra
Của chư Phật Thánh diệu hòa biết bao
Là câu nói Pháp thanh tao
Đưa người giữa biển sóng xao lên bờ
Ôi ! Lời nói quý không ngờ
Đương Phàm hóa Thánh một giờ đồi thay.
CHÁNH MẠNG :
Là mạng mạch, mạng sống của Phật pháp. Mạng mạch rất khó, người xuất gia lập chùa giảng kinh thuyết pháp, làm mọi Phật sự, in kinh, dịch kinh, giữ giới vì muốn bảo vệ duy trì mạng mạch của Phật pháp, rất khó vượt qua mọi ma chướng trong cuộc đời, vì đường về … rất khó.
Đường về Tây phương rất khó.
Nhiều yêu ma đón ngõ chặn đường
Muốn làm chúng nó chạy tuôn
Phải có lòng Bồ Tát, có gan anh hùng.
Lúc nào cũng nhớ đến mạng mạch của Phật Pháp, phải luôn nhớ ta là người đạo, không vì một chút mê hoặc của dục vọng hư huyễn, của sự ham muốn mà làm mất mạng mạch Phật pháp, quyết lòng bảo vệ Phật pháp, sẵn sàng hy sinh thân giả tạm, hy sinh cuộc đời, không đổi giá trị Phật pháp bằng sự thấp hèn, phải giữ vững chơn lý mạng mạch. Phật pháp cho con đường Phật pháp mới vững mạnh lớn lên đó là chánh mạng. Cho nên lúc đó ta ngồi nơi nào thì Phật ở nơi đó. Ta nói là Phật nói, ta nghĩ là Phật nghĩ vì ta có chánh mạng. Người sống với tà mạng dù có đọc kinh đi nữa thì cũng không phải kinh của Phật, lời của Phật vì Phật tức tâm mà tâm không chơn chánh không phải là Phật. Vậy mọi người ai ai cũng cần phải giữ chánh mạng, nếu được như vậy nhất định người đó sẽ vãng sanh, vì bao nhiêu dục vọng, thất tình không còn niệm nhớ nữa, gọi là ly dục các ác pháp, đã được vãng sanh Tịnh Độ (Tâm tịnh tức Phật tịnh).
CHÁNH NGHIỆP :
Ta làm nghề gì? Con người sanh ra vốn không có nghề gì cả, sở dĩ có nghề là vì cuộc sống, vì sự sinh tồn, vì hạnh phúc nên bắt buộc phải có nghề. Ta phải biết mỗi cái nghề là một cái nghiệp. Ta phải lựa chọn thật khéo léo, chỉ chọn một nghề là chánh nghiệp nên ai cũng tự chọn. Người tu xuất gia thì rất tốt với chánh nghiệp vì chỉ biết A Di Đà Phật. Cái khó cho người cư sĩ khi sống với chánh nghiệp. Nên vào nghiệp ta phải cẩn thận, va chạm trong mọi sự sinh hoạt làm ăn, phải thường nhớ trong tâm lúc nào cũng thầm niệm A Di Đà Phật để nghiệp chướng mới dễ tiêu trừ, đó là chánh nghiệp.
CHÁNH TINH TẤN :
Người tu bước vào chánh đạo thường đối diện với cái khổ và cái khó, nếu chấp nhận được khổ và khó vượt lên được sẽ thành đạt, nếu tinh tấn được cái khó, ai vượt được là đệ nhất trong thiên hạ. Ngài Ma Ha Ca Diếp tu trong cái khó gọi là đệ nhất hạnh đầu đà, là đệ tử thừa kế của Đức Phật. Khi 80 tuổi rồi, vì thấy Ngài đã già Phật khuyên “Con đã lớn rồi nên để những thầy còn trẻ đi khất thực xin thức ăn về cho con ăn” nhưng Ngài nói rằng “Bạch Thế Tôn dù con lớn tuổi, sức đã kém nhưng trong giờ phút tàn lụn, con còn ít hơi sức con vẫn phải đi khất thực để làm gương cho mọi người, chớ không thể ngồi chờ mọi người được”. Người tu càng bình dân thì càng dễ đem hạnh phúc cho mình và cho người, phải hết sức bình dân đó là tự vượt qua mọi khó khăn. Ta phải tự vượt qua mọi sự khó, khổ. Nếu niệm Phật mà ngũ gục phải tự khắc phục vượt qua đó là tinh tấn. Trong việc ăn uống cũng vậy, có gì ăn nấy đây là điều rất hạnh phúc, dễ dàng cho ta và cho mọi người.
CHÁNH ĐỊNH :
Là tâm không ở trong lục đạo, không tham, sân, si, phiền não, tâm không trụ trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới). Nếu niệm Phật còn vọng tưởng được về cõi trời cõi Tiên hoặc sau này được hưởng phước cõi người, đó là tâm vẫn còn ở trong tam giới, không phải là niệm Phật trong chánh niệm ( chánh định ) không chấp tướng ngồi yên, phải nghe trong lòng không còn ham muốn đòi hỏi, không còn tâm niệm tranh đua giành giựt, nghĩ đến chuyện hung ác hại người đó là người tu trong tâm chánh định là dân của Tịnh Độ, còn định mà không biết như cây đá, là vô ký là định khô không sanh trí huệ.
Tổ dạy :
Nếu xem Phật ở tướng xinh
Lại nghe Phật ở âm thanh dịu dàng
Thì ra kẻ ấy lạc đàng
Như Lai chơn tánh có tàng chi chi.
CHÁNH TRÍ HUỆ:
Trí huệ do đâu mà có, đây là chỗ cả thế giới đi tìm. Trí huệ này không thể cho được, vì đã có sẵn nơi mỗi con người. Khi đọc kinh sách ta phải chịu khó tư duy tìm hiểu, cần phải tập trung chánh định thì trí huệ sẽ phát sanh. Những ai tin Phật, nghe Pháp sẽ được nhất thiết chủng trí. Trong kinh Phật nói rằng, lúc đó từ chân mày trắng của Phật chiếu ra hào quang ( bạch hào uyển chuyển ngũ tu di ) nên các đệ tử hỏi Phật, hôm nay có việc gì lạ thường mà chúng con thấy Phật hiện điềm lạ.
Ta phải biết trí có hai loại :
Trí sanh khởi từ tâm tham lam, dục vọng là tà huệ.
Trí làm lợi ích cho mọi người không vì tư lợi tham vọng, giúp cho mọi người tu hành sanh về thế giới Cực Lạc gọi là chánh trí huệ. Đây là con đường trải bằng vàng, ta phải gạn đục lóng trong, vậy cái gì đục? Cái gì trong? Niệm vọng tưởng là đục, suy tưởng viễn vong đó là đục, vừa khởi lên niệm chạy theo vọng trần là đục.
A Di Đà Phật là trong, ta thường sống với tự tánh Di Đà vô biệt niệm là gạn đục thành trong. Nếu quên A Di Đà Phật thì đục mãi không trong. Tổ dạy:
Tịnh tâm bớt nói ngưng làm
Lần lần nhập Thánh siêu Phàm từ đây.
Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật gọi là thiền chỉ, hay niệm Phật hướng trực chỉ về thế giới Tây phương Cực Lạc đó là Thiền chỉ.
Thiền quán trước khi niệm Phật ta nhớ lại lúc chưa niệm Phật ta tranh đua, ham muốn, giành giựt nên lúc đó tâm ta khổ sở vô cùng, tâm không an lúc nào cũng như lửa đốt. Nên Phật nói tam cõi như nhà lửa, lúc nào cũng lăng xăng điên đảo, lộn xộn, phương pháp này gọi là thiền quán.
Vậy tu có hai cách trực chỉ và tu quán, nếu ai mỗi ngày làm được từ một đến bảy ngày thì sẽ về thế giới Cực Lạc, là bước vào đường Chánh đạo. Người ở trong Bát Chánh Đạo tu hành nên thâm nhập được, vị này chứng đắc được quả A La Hán. Trong một thời pháp của Đức Thích Ca Mâu Ni vừa giảng xong liền có nhiều vị đắc quả La Hán.
La Hán nghĩa là gì? Là quả vị vô sanh, không còn sanh một niệm trần lao nào quay lại cõi luân hồi nữa ; là vô ngã, không còn chấp xác thân là của ta. Tổ dạy rằng :
Thân không thật thấy là thân Phật
Tâm bông lông biết Phật bông lông
Thân tâm tánh ấy vốn không
Người ta với Phật vốn đồng như nhau.
Người chứng đắc quả La Hán không sợ chết nên gọi là vô sanh. Vô sanh chỉ về tánh là không còn sanh khởi một niệm sai khác, chỉ còn niệm Phật không còn chen lẫn một niệm nào khác gọi là chứng đắc vô sanh. Niệm Phật là nhân, là hạt giống phát sanh trí huệ, là nhất thiết chủng diệu tam muội, đầy đủ các món đẹp đẽ, đầy đủ công đức trang nghiêm quốc độ Cực Lạc.
Chúng ta đã biết thế giới Cực Lạc có con đường lót bằng vàng để cho bậc Thánh đi. Thật rõ ràng nếu ai làm được điều này, là vào Thánh đạo, là nhứt pháp giới, cõi duy nhất lý thể chơn như, giới là chỗ y đó mà sanh pháp.
Bích Chi Phật là phải tu đủ 12 nhân duyên. Duyên thứ nhất là ngày nay nơi ta bà sanh làm người, làm thú v.v… do nơi mê muội không hiểu biết, không sáng suốt gọi là huyễn tâm, nghĩa là tâm không thật, không chơn chánh, không sáng suốt, không trí huệ, nên ta bị nằm trong lục đạo luân hồi. Nên hiện có thân này là do huyễn sanh.
Tất cả muôn loài vạn vật trên thế gian đều mang sắc thân huyễn, đều phải chi phối qua bốn thời kỳ là Thành, Trụ, Hoại, Không đồng với sanh, già, bệnh, chết không có gì thật cả, chỉ có Phật tánh là thật, đó là chơn như. Vì huyễn sanh không hiểu biết nên vô minh. Bởi tâm niệm sanh khởi trôi lăn theo Thập Nhị Nhân Duyên, do cộng nghiệp cùng nhau niệm niệm lăng xăng mãi đuổi bắt, tâm sanh phân biệt nên cho ta bà là khổ chớ ta bà nào có khổ vui. Sự khổ vui không trụ vào đâu cả vì vạn pháp đều do tâm sanh.
Tất cả sự hiển bày này đều là phương tiện vì muốn minh định lại lời của Phật Tổ nối truyền xiển dương khai sáng đến ngày nay.
Học và tu là hai điều cần thiết, ta phải biết vì sao Phật ra đời nếu không biết sẽ mê tín, giống như người đi đêm không có đèn, sẽ té hầm sa hố. Tu không đúng chánh pháp sẽ bị loạn trí, vẫn còn những mê lầm xấu ác, làm giáo pháp ngày thêm suy đồi, đây là điều rất quan trọng cho người học Phật. Trong kinh Phật nói : “Sư Tử trùng sư tử nhục”, nghĩa là lông sư tử hóa thành sâu mới giết được sư tử. Vì chúa sơn lâm, không sợ con vật nào mà chỉ sợ lông hóa thành sâu ăn thủng da thịt sư tử. Như vậy chính đệ tử chúng ta mê lầm mà làm hại Phật Pháp. Người niệm Phật là đã quy y tam bảo mà nói sai, hướng dẫn mọi người sai là tự mình giết hại Phật pháp.
Nói về tâm, trong kinh Phật dạy “sắt sinh ra sét, sét trở lại ăn sắt”. Chúng ta vì vô minh, từ nơi tâm sáng suốt trí huệ này mà sanh ra phiền trược, thì chính vô minh phiền trược trở lại giết hại ta, nên sáng suốt nhận định phải khế lý, khế cơ, khế thời.
Khế lý : là lý thuyết của Phật, luôn luôn người tu phải nắm rõ kinh Phật. Nghe những lời triết lý của Phật, ta phải nắm rõ khế lý tùy căn cơ trình độ.
Khế cơ :phải kịp theo thời, theo trình độ tu học. Niệm Phật được đến cửu phẩm liên hoa, gồm Thượng Phẩm, Trung Phẩm, Hạ Phẩm. Trong một phẩm chia làm ba, tất cả là 9 phẩm. Người hạ căn ở hạ phẩm, khá hơn ở trung phẩm, người cao hơn ở thượng phẩm. Tùy theo căn cơ mà khế lý, khế cơ nên Phật nói ta chỉ giảng một thứ tiếng các loài đều nghe, tùy trình độ mà hiểu. Có người hiểu sâu, người hiểu phớt qua hoặc có người chẳng hiểu gì cả, đó là tùy căn cơ mà hiểu.
Khế thời : vì thời này là thời văn minh khoa học, thời vật chất vàng son, nên con người quên niệm Phật, mà niệm tiền, niệm của cải tài sản rất nhiều, ai nhất tâm niệm Phật thì giá trị vô cùng.
Ngày nay ra sử dụng Tịnh Độ Tông, tất cả hành giả tu tịnh độ đều là hoa sen cả. Liên Tông Tịnh Độ là hoa sen trong đất tâm thanh tịnh. Ta xem kinh phải sáng suốt nghiền ngẫm ( thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải ) để hiểu biết. Ta phải biết những sự hiểu biết phát sinh từ vọng tưởng sanh khởi. Tổ dạy :
Vọng tâm là ý riêng tư
Thất tình lục dục một tên khác nào.
Ta xây dựng kiến lập những tư tưởng huyễn hóa không thật, nên Phật có nói trong kinh là chúng sanh cất nhà trên hư không.
Ở thế gian có ai cất nhà trên hư không hay không? Ta xét thấy người đó có điên đảo không? Chúng ta đã cất nhà trên hư không từ vô lượng kiếp, đó là xây dựng bằng vọng tưởng, niệm chấp trần lao, tìm cầu van xin, tưởng tượng về các cõi, cho đó là thật có, là chắc chắn. Nơi thế gian muốn cất nhà phải chọn đất tốt đẹp cất mới an toàn, không uổng công. Phải chọn nơi an ninh trật tự, ở gần người lương thiện, không gian xảo thì đời sống mới bình an, đó là chọn chỗ ở an lành.
Nếu xây dựng lại nguồn tâm ta phải chọn tâm địa nơi nào tốt đẹp. Mảnh đất tâm thanh tịnh nghĩa là phải hướng về Tây phương Tịnh Độ để xây nhà Như Lai trong sạch, không bị ô nhiễm. Là mảnh đất tâm an vui hạnh phúc, nơi đó không hề có những tâm niệm xấu, ác khởi lên. Đất đó chỉ trồng các loại cây báu là bồ đề, lục độ, vạn hạnh Bát Chánh Đạo, từ bi, hỷ xả, tứ nhiếp pháp, thất bồ đề phần, nơi đó thật bình an. Thanh tịnh đó là Niết Bàn diệu tâm vô tướng nhưng thật tướng là pháp mà trong kinh Pháp Hoa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai thị cho chúng đệ tử và truyền thừa tâm ấn lại cho Ngài Ma Ha Ca Diếp. Ngài đã phó chúc lại cho vị Tổ đầu tiên trong thời khai thị nơi núi Linh Thú, trong Hội Linh Sơn. Đức Phật đã tuyên thuyết rằng “Ta vì đại sự nhân duyên, thị hiện đến thế gian này để chỉ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến” ( thấy lại tánh Phật nơi chính mình ) đó là chánh pháp nhãn tạng, là trí huệ của sự thấy biết chơn chánh, không vì tư lợi ; ai ai cũng trở lại nơi mình, không chạy theo sự ô nhiễm trong sáu nẻo luân hồi, không còn quẩn quanh trong vòng lục đạo, chấm dứt các sự khổ, thật bình an, thanh tịnh sáng suốt.
Có người hỏi rằng ta niệm Phật sẽ đi về đâu? Vì muốn đến quốc độ thanh tịnh nên niệm A Di Đà Phật, đó là quốc độ thanh tịnh Cực Lạc nhưng phải biết quốc độ đó ở đâu? Nếu có ai đưa tay lên hư không chỉ rằng Cực Lạc ờ trên đó, thì chắc chắn đó là chỉ trong tưởng tượng, không thật vì Cực Lạc không xây dựng trên hư không được. Chỉ là tư tưởng ảo hóa do niệm vô minh biến hiện, tạo ra cảnh giới mơ hồ. Nếu không chánh tín sẽ lạc vào cảnh giả tưởng, đây là điều rất tai hại. Ta phải thật sáng suốt, phải thật hiểu biết ; hiểu biết theo đức Phật là phải tin nhân quả, việc gì cũng phải có nguyên nhân và kết quả của nó, đừng tư tưởng mông lung. Muốn thấy được quốc độ thanh tịnh phải y lời Đức Phật giảng thuyết về Tịnh Độ.
Tâm địa thanh tịnh là Tịnh Thổ, nơi đó không có phiền não, không tranh đua ; thực tế nơi đó tâm địa con người toàn là trí huệ bình đẳng, an lành không não loạn, không khách trần ( vọng trần ) làm ta khổ sở. Ta tu niệm Phật hằng coi lại Tịnh Thổ của ta còn phiền não, nóng giận, sân si, danh lợi, ngã mạn, ích kỷ, hẹp hòi, đố kỵ, lăng xăng không?
Vậy Tịnh Thổ đó ở đâu?
Trong kinh Lục Tổ Huệ Năng nói với Ngài Ngũ Tổ “Mỗi người đều có tự tánh thanh tịnh tự nhiên”, nhưng nơi đó cũng có phàm tánh, do tiếp xúc trần, sanh ra tham, sân, si, thương ghét v.v… Ta phải soi ra để biết phàm tánh và Phật tánh. Vậy Phật tánh ở đó là những bậc tốt đẹp, không có tam độc tham sân si, đất đó ở đâu? Ở thế gian ta thấy ngay ở những khu sang trọng văn hóa cao, đất tốt đẹp bình an, toàn là biệt thự sang trọng, nguy nga, dành cho người có phước giàu sang ở. Như thiếu phước nghèo nàn không thể đến đó ở được. Số lầu đài đó được xây trên đất mà đất đó được phân theo khu, tùy duyên mà sử dụng.
Cũng trên đất nhưng lại cất chùa chiền cho người tu ở. Xóm xì ke ma túy cũng cất trên đất nhưng theo phước con người có trí hay vô trí xây dựng nên. Tất cả đều xây dựng trên đất. Tâm địa cũng vậy, tùy theo hàng Phật, Thánh, tà ma, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh xây dựng nơi đất tâm. Nơi chư Phật, chư Bồ Tát ở chỉ làm lợi ích cho mọi người, thanh tịnh sáng suốt đất đó gọi là Tịnh Thổ, còn si mê như ngạ quỷ, súc sanh, tham lam, tranh đấu, phiền não thì đất đó không phải là Tịnh Độ mà là uế độ.
Đức Phật nói rằng : “Ta có một Tịnh Thổ (khu đất tâm thanh tịnh) dành cho người tu niệm Phật” ra khỏi phiền não không còn tham, sân, si, không còn tham đắm ước muốn gì nữa sẽ sanh về đất đó. Vậy đất đó ở đâu? Hiện tại ở tâm địa của ta, hãy nhìn lại còn có giống không, người trong tâm chứa toàn từ bi hỷ xả, kinh kệ, gõ mõ tụng kinh niệm Phật, niệm chú, Thiền định là ở Tịnh Thổ. Không tu ngay Tịnh Thổ của ta cứ mãi xây dựng sự tướng bên ngoài là cất nhà trên hư không. Trong kinh Phật nói nếu như gia đình bất an, vậy ta nên xét lại là do tâm bất an hay hư không bất an. Tổ Minh Đăng Quang dạy :
Sự duyên thì đạo khác đời
Lý chơn đời đạo không rời không xa
Chấp không chấp có rầy rà
Đến khi vô chấp mới hòa thuận nhau.
Người mê muội cứ nhờ thầy cúng bái, cứ nhìn lên trời mà van vái thì tâm này có an không? Đó là làm việc tưởng tượng trên hư không mà cầu vào tâm. Những việc xảy ra phải quán xét và thành tâm sám hối. Muốn an ổn thì phải sửa ngay tại tâm, phải tu sửa lại tâm mình vì Niết Bàn do tâm tạo địa ngục do tâm sanh.
Tâm không vạn sự đều không
Tâm chơn vạn sự thảy đồng quy chơn.
Phải xét lại sự sai lầm lâu nay, nếu không biết điều này cứ mãi quỳ lạy, nói là sám hối thì dù van lạy bao nhiêu cũng như ta cất nhà trên hư không. Tổ nói rằng : “Các ông đừng cất nhà trên hư không” ( Kinh Tịnh Danh Duy Ma Cật ). Tự tánh vốn là trí huệ sáng suốt, thanh tịnh, trí có hai hạng :
1. Người lo tụng kinh niệm Phật ( thiện trí ).
2. Người luôn sống với độc ác, gian xảo, tham lam, sân hận gọi là phàm hay ma ( ác trí ).
Các loại chúng sanh là cõi Phật của Bồ Tát. Xưa nay ta thường có cái ác bực bội, khó chịu, cau có, đó là Tịnh Thổ bị ô nhiễm. Tịnh Thổ có tất cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bồ Tát, chư Phật gọi là Phàm Thánh đồng cư địa. Phật, Bồ Tát do giác ngộ thương hết chúng sanh vì trong đất tâm có tất cả. Chúng sanh A Tu La địa ngục, súc sanh, là sân hận, phiền não ngu si đó là tất cả chúng sanh trong tâm địa ( đất tâm ) ta cần phải độ hết chúng sanh trong tâm ta được vô tham, vô sân, vô si, nghĩa là độ hết tất cả chúng sanh mà không thấy chúng sanh nào được độ cả. Được như vậy mới là cõi Cực Lạc nơi đó đất được lót toàn vàng ròng. Vì tâm thanh tịnh như vàng y, chất lượng quý không hề nhiễm loạn một mảy trần nào cả. Ta hãy nhìn lại từ trước nay đã từng niệm Phật nên coi lại nơi tâm có còn phiền não, sân, si hay không? Còn giận hờn không? Đó là các chúng sanh đang theo ta, ta phải độ nó. Người tu đừng nên ỷ lại, ngã mạn, tự cao cho rằng ta hoàn toàn tốt đẹp. Chẳng qua là nhờ duyên giác ngộ, nên biết cách giữ gìn, đó là độ chúng sanh trong tự tâm. Cho nên Tịnh Thổ của các Bồ Tát rất nhiều chúng sanh cần phải được độ đó là quốc độ của các Bồ Tát, ta không nên cho là tâm ta đã hoàn toàn trong sạch chỉ giác ngộ được từng phần ( giác phần ) vì chúng sanh trong tâm còn rất nhiều mà ta cần phải độ. Ta phải biết quốc độ ta tự mà xây dựng, không ỷ lại, ngã mạn với những gì đối diện ở thế gian. Vậy các loại chúng sanh là cõi Phật của Bồ Tát vì chúng sanh là vọng huyễn cõi thế gian. Ta hãy chuyển hóa biết đó là không thật, nếu không dính mắc trụ vào cái không thật thì đã sống với tánh giác, tức chơn. Tổ dạy phiền não tức Bồ đề hay chúng sanh chỉ khác nhau ở mê và giác thôi. Tổ dạy rằng :
Thói thời càng nhiễm càng quen
Bụi đời càng đóng càng đen tinh thần.
Nhiều năm chung lộn trong trần
Ý mình còn giữ riêng phần được đâu.
Cách đây hơn 2550 năm tại Ấn Độ khi Đức Phật có mặt trên cõi đời, các mối đạo khác thắc mắc rằng, đã có rất nhiều đạo giáo mà Phật còn đến làm gì ? Phật trả lời : “Vì các ông cứ mãi xây nhà trên hư không, nên ta đến dạy các ông xây nhà trên Tịnh Thổ, có ao Thất bảo, có cây bảy báu”, nghĩa là người tu phải tạo cho ta có đức, phải luôn luôn coi lại Tịnh Thổ của mình ( đất tâm ) có đức đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả không? Nếu có thì đã phát triển được nơi đất tâm ( tâm địa ) ta phải tập tu được tánh biết thương người, mến vật, biết bố thí, phải biết dọn dẹp tự tâm, tự sửa chữa nơi mình được tốt đẹp. Lục Tổ nói : “Trong tâm chứa muôn pháp”. Người tu là “duy tuệ thị nghiệp” người không trí tuệ sáng suốt sẽ bị lạc đường ma, trí tuệ là sự nghiệp lớn nhất của con người.
Sở dĩ Phật dạy ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật, trì chú, ngồi thiền, tụng kinh tất cả những phương pháp đó ta phải biết để làm gì ? Tất cả Bồ Tát đều giữ quốc độ Phật vì đó là quê xưa cảnh cũ, ta phải quên những sự độc ác, tham tàn, hờn giận là giữ gìn đạo đức, phát huy phẩm hạnh. Vì có người tội lỗi, nên Phật mới truyền dạy pháp tu, ta phải biết tất cả đều là phương tiện để dìu dắt ta trở lại bản tâm thanh tịnh sáng suốt, vô nhiễm, luôn sống với đạo đức.
Bồ đề vốn thanh tịnh chằng lìa tự tánh có đủ phước điền.
Vậy những ai cất nhà trên hư không tức là xây đắp nâng niu vọng tưởng mỗi ngày thêm lớn, sẽ không thành công, ta phải bố thí tất cả là đại bố thí. Ta phải giữ lấy cõi Phật nghĩa là quay về với tự tánh giác ngộ sáng suốt ( tự quy y Phật tánh chính ta ). Nếu ai sống được với tâm bình đẳng đối với muôn loài thì người đó đã giác ngộ chơn chánh vì Phật là chánh đẳng chánh giác, hoàn toàn bình đẳng, hoàn toàn giác ngộ. Bồ Tát giữ Tịnh Quốc vì muốn giúp ích cho chúng sanh, tất cả mọi người phải tu học để giữ lấy quốc độ của mình.
Tất cả các pháp đều thanh tịnh, sở dĩ nói điên đảo là do con người tâm không thanh tịnh, nên sanh tâm niệm phân biệt hơn thua, tốt xấu. Ta phải trồng vào Tịnh Thổ ( đất tâm ) những giống thiện lành từ bi, hỷ, xả, dùng những pháp này tạo thành pháp thân Phật, là ta đã có đủ trí huệ nhận biết được và không dính mắc chấp vào phàm thân mê muội đau khổ nữa, phải biết địa ngục ngạ quỷ, súc sanh nó cũng là giống, ta không nên trồng những thứ giống đó vào Tịnh Thổ nữa. Lòng ngay thẳng là Tịnh độ. Nếu muốn biết ai là người của Tịnh Độ phải xét kỹ coi người đó có ăn ngay nói thẳng, không cong quẹo đó là người ở Tịnh Độ, phải biết lựa giống mà gieo vào tâm địa. Lúc nào cũng tin vào nhân quả, tin ta có trí huệ sáng suốt, phải làm lợi ích chúng sanh không tư lợi đó là Tịnh Độ tại tâm ta.
Người giác ngộ tức Bồ đề là người của Tịnh Độ đó là người có tâm đại thừa, phàm tánh chưa mất thì không thể thấy Phật tánh.
* Bố thí pháp là Tịnh Độ.
* Trì giới là không làm mọi người đau khổ.
* Tinh tấn là vượt qua mọi chướng nạn, cám dỗ.
* Thiền định là Tịnh Độ : chấp nhận nhân quả.
* Trí huệ người tu cần phải sáng suốt là Tịnh Độ.
Tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả. Nếu sống được với bốn tâm này thì niệm Phật viên mãn.
TỪ :là không làm điều gì cho ta khổ, không hờn giận oán trách, ghen ghét, khó chịu, bực bội ai cả, cũng không muốn nghe ai khổ ( vô tham, sân, si ).
BI : mỗi khi biết ta khổ, phải có lòng thương xót, phải tìm cách tu để cứu lấy ta, dùng mọi phương tiện mà giải quyết, thấy ai nghèo đói bệnh hoạn, thì phải thương xót. Phải cứu giúp mình và mọi người đó là bi – là Phật đã hiện thân nơi đất thanh tịnh chính mình. Do pháp từ bi hỷ xả mà sanh ra tâm Phật, vì từ bi hỷ xả là pháp, mà pháp bảo là mẹ sinh ra chư Phật. Ai có từ bi hỷ xả là Phật hiện tiền. Nếu mặc y đội mão mà tâm không có từ bi hỷ xả là vỏ của Phật chứ chưa có ruột của Phật.
HỶ - XẢ :là xả bỏ mọi lỗi lầm người khác, luôn vui vẻ không chấp trụ nơi tâm. Vậy từ bi phải có hỷ xả theo kèm nếu đủ bốn đức này rất lớn gọi là Đại Đức đó là bốn đức cao thượng vĩ đại của người tu.
BỐN NHIẾP PHÁP :
1. BỐ ThÍ : Sẵn sàng buông bỏ tất cả sự khổ vui ở thế gian ( tinh thần lẫn vật chất ).
1. ÁI NGỮ :Không nói lời tức giận, ghen ghét, thù hận, chửi rủa, mà nói lời ngọt ngào, yêu thương, trìu mến, nói lời chơn thật. Lúc đang buồn, giận, bực bội đừng nên mở lời vì Tổ dạy rằng khi mở miệng ra :
Miệng ta là cánh hoa sen
Một khi hé mở một phen thơm lừng.
Tiếng ta là gió mùa xuân
Một cơn thổi nhẹ muôn dân mát lòng.
2. LỢI HÀNH : là những đức hạnh phổ biến đem lợi ích cho nhiều người, không cần nghĩ và mong cầu lợi dưỡng hay phước cho riêng mình việc làm do hạnh phúc chung.
3. ĐỒNG SỰ : Với tâm hoan hỷ đồng chia sớt nặng nhọc, khó khăn với mọi người.
Người đa phương tiện là người của Tịnh Độ. Vậy Cực Lạc chẳng ở đâu xa mà ở tại lòng ta. Phải giác ngộ thông hiểu các pháp do duyên sanh, là sự hợp tan mà các pháp được thành tựu đều không bền chắc các pháp như huyễn, như sương, như điện chớp ta hãy sống với tự tánh chơn như bất động. Tổ Sư dạy :
Thân thọ sanh từ nơi không tướng
Như giấc mơ do tượng hình ra
Người mơ tâm thức đâu mà
Trụ đâu tội phước đều là thành không.
Bài pháp của Tổ Sư nói về thân, tâm, ý hoàn cảnh tội, phước tất cả đều là pháp huyễn do tâm sanh.
Pháp lành khởi vốn xưa là huyễn
Nghiệp dữ gây cũng huyễn mà ra
Mình bọt đậu gió lồng qua
Không căn không thật pháp là huyễn thôi
Bốn vật lớn mượn thân làm đó
Tâm không sanh nhơn cảnh mà sanh
Cảnh không tâm cũng không thành
Đôi đàng tội phước in hình huyễn thôi
Thân không thật thấy là thân Phật
Tâm bông lông biết Phật bông lông
Thân tâm tánh ấy vốn không
Người ta với Phật cũng đồng như nhau
Thân chẳng thấy biết là thân Phật
Nếu biết rồi thì Phật là không
Người khôn biết tội tánh không
Thản nhiên chẳng sợ trong vòng tử sanh
Tánh chúng sanh thảy đều thanh tịnh hết
Do không sanh không diệt mà ra
Thân tâm là huyễn thôi mà
Huyễn thời tội phước hóa là thành không
Pháp là pháp vốn xưa không pháp
Không pháp mà cũng pháp đó đây
Soi ra không pháp buổi nay
Pháp nào pháp nấy nào hay pháp nào./.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !
Kính thưa Quý đọc giả !
Tất cả sự hiển bày trong quyển sách này được thành tựu bởi nhân duyên, là phương tiện của đạo tràng niệm Phật. Một pháp môn đang được thịnh hành và được sự ưu ái của nhiều người đang tu học Phật. Hiện nay trong thời này vì cách xa Phật Tổ quá lâu nên chúng ta muốn tu học Phật đúng theo chân lý hợp với ý chỉ của Phật là một điều rất khó. Riêng với bản thân người viết đã từng tu theo phong trào, chạy theo cái bên ngoài, chối bỏ bản tâm để cầu huyền linh, chạy theo vô minh huyễn ảo, hoàn toàn bị lạc vào chốn rừng mê, mãi tìm cầu bỏ mất thời gian quý báy của kiếp làm người trong quá trình học Phật vì mê lầm chạy theo giả cảnh.
Hôm nay đủ duyên lành, được biết thế là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng nghĩa là trực nhận lại tự Phật Pháp Tăng nơi mình sẵn có, tánh thanh tịnh chơn như không ô nhiễm bởi trần lao dục vọng.
Quy y pháp là trở lại tu thực hành đúng theo lời Phật dạy, đó là y pháp theo đúng pháp môn không lầm lạc vì chi phối bởi một huyền linh hay lợi dưỡng nào cả, sống với pháp giáo truyền của Phật là y pháp.
Quy y Tăng hằng quy ngưỡng chiếu soi vào tự tánh, phải thấy rõ tự tánh không còn sanh niệm của dục trần tham sân si, phiền não lợi danh ; phải thanh lọc các pháp do niệm sanh, tâm thật vắng lặng là ta đã trở về quy y chính nơi thanh tịnh của chơn tánh. Tự ngay nơi ta chuyển hóa nghiệp trần lao điên đảo, trở lại bản tánh an lạc tịch lặng sáng suốt NHƯ TĂNG.
Ta hết lòng tôn kính thường trụ Tam Bảo ba ngôi Phật Pháp Tăng đó là hình ảnh Đức Phật (Phật bảo).
Nghiên cứu và tu học thực hành y theo giáo pháp hết lòng tinh tấn hành trì đó là ( Pháp bảo ).
Tôn kính chư Tăng già thanh tịnh cần theo tu học đó là ( Tăng Bảo ).
Tam Bảo có xuất thế gian Tam Bảo và thường trụ Tam Bảo.
Thường trụ Tam Bảo là tượng Phật mà ta hằng chiêm bái ( Phật bảo ).
Pháp bảo là pháp môn tu và kinh điển của Phật để lại.
Tăng bảo là những nhà sư thanh tịnh là đệ tử của Phật.
Xuất thế Tam Bảo là tự tánh Phật sáng suốt nơi mỗi người sẵn có.
Pháp là phương pháp tu hành nghiên cứu kinh điển theo giáp pháp Phật tu hành đúng theo phương pháp Phật dạy ra khỏi luân hồi giác ngộ giải thoát.
Tự tánh thanh tịnh vắng lặng mọi vọng niệm thế gian, không niệm trụ dính mắc trong lục đạo là tự tánh Tăng xuất thế.
Vậy ta phải thường niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Ta phải tự quay vào tự tánh, thấy thông thấu, nhận rõ niệm nào là niệm Phật, niệm nào là niệm lục đạo trần lao để thanh lọc tự tâm không còn chướng ngại các nghiệp ác mê lầm, vì tất cả niệm là nguyên nhân, kết quả mê hay ngộ của cách tu hành. Nếu hiện tại ta sống được với tánh giác, không lầm sai là nhân là con đường đưa ta đến quả vãng sanh Cực Lạc, còn hiện giờ ta cứ niệm trụ vào lục đạo, đó cũng là đạo nhưng là ác đạo, không phải là Phật đạo, đây cũng là con đường tự nơi tâm ta, kiến lập xây dựng dẫn ta đến quả luân hồi hay vãng sanh Cực Lạc đó là chánh báo là nhân, quả là y báo không hề sai chạy, tất cả đều là kết quả sau này phước họa đều chính nơi tâm hạnh của ta.
Hôm nay đầy đủ duyên lành viết lại lời dạy của Tôn Sư, được phước duyên chia sẻ giáo pháp cùng quý độc giả là việc làm vô cùng an lạc của người viết. Việc làm này rất khó khăn, nhưng vì rất tâm đắc trong pháp tu người viết cố gắng soạn, chép lại làm phương tiện chia sẻ với các bạn đồng tu. Ngưỡng mong chư Tôn Đức Tăng già hoan hỷ và chỉ dạy thêm những điều còn khiếm khuyết trong quá trình biên soạn. Thành tâm sám hối tất cả những mê lầm trong vô lượng kiếp đã từng gây khổ não cho thân bằng quyến thuộc cùng tất cả pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỔ TÁT MA HA TÁT.
Cư sĩ Phật tử Như Thánh
Kính bút
Thành Kính Cúng Dường
...TRỞ VỀ